“Đường tới Bản Mèo đường dốc cheo leo.Vượt qua sườn núi là đến với Bản Mèo.
Qua bao nhiêu con suối, nên cô thân quen…”
Một cô giáo ở Phú Thọ chia sẻ, mỗi khi nghe giai điệu của ca khúc này, cô lại xúc động nhớ về những tháng năm tuổi trẻ lên vùng cao dạy chữ cho các em thơ.
Đã 47 năm kể từ khi ra đời, ca khúc Cô giáo Bản Mèo được trình diễn ở rất nhiều hội thi, ngày lễ, truyền cảm hứng về tấm gương của biết bao thầy cô giáo đã không quản ngại khó khăn, vất vả, hết lòng vì học trò.
Thế nhưng, những thông tin về tác giả bài hát hầu như vắng bóng. Thậm chí, nhiều video trình diễn ca khúc không hề có một dòng nào ghi tên tác giả.
|
Thầy giáo Trần Phú Thế Cường là người sáng tác ca khúc Cô giáo Bản Mèo |
Thầy giáo Trần Phú Thế Cường, cựu giảng viên Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội chia sẻ, bài hát Cô giáo Bản Mèo ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt.
Vào tháng 5/1974, thầy và các cán bộ, giảng viên của khoa Ngữ văn có chuyến đi thực tế và nói chuyện văn chương tại miền Tây Bắc, trong đó có đi qua Điện Biên. Một hôm đoàn định đi Tây Trang, là vùng biên giới giữa Việt Nam và Lào, nhưng trời mưa dữ dội. Đi được một đoạn khoảng 20km, đoàn phải rẽ vào Đền thờ tướng Hoàng Công Chất nghỉ chân. Ở nơi này có một cây đa to xum suê cành lá. Dưới cây đa có một lớp học nho nhỏ, làm bằng tranh tre lá nứa.
“Tôi nhìn thấy một cô giáo trẻ, đang say sưa dạy khoảng 20 em đọc thơ. Bên ngoài trời mưa mà lạ lùng chim hót véo von, như thể cũng học bài cùng. Giữa khung cảnh núi rừng ấy, hình ảnh cô giáo cùng đàn em nhỏ ấy bỗng khiến trong tôi trào dâng một cảm xúc mãnh liệt. Và tôi viết Cô giáo Bản Mèo ngay trong chuyến dừng chân tại Điện Biên đó”, thầy giáo Trần Phú Thế Cường nhớ lại.
Ca khúc Cô giáo Bản Mèo do ca sĩ Ánh Nguyệt thể hiện
Thầy Cường cho biết, có nhiều người tưởng rằng, “tiếng học bài ríu rít tiếng chim ca” là hình ảnh mang tính chất văn học, nhưng không phải, đó chính là hình ảnh thực. Cô giáo trong bài hát cũng là cô giáo thực. Và cảm xúc sáng tác của tác giả cũng là cảm xúc từ hoàn cảnh thực.
Bài hát khi mới ra đời có tên là Cô giáo lên Bản Mèo. Nhưng sau này, một số người trình bày ca khúc đã sử dụng một số tên gọi khác như “Cô giáo trên Bản Mèo”, “Cô giáo Bản Mèo”, thành ra bài hát có 3 tên gọi.
Nội dung bài hát cũng có một số “dị bản” so với bản gốc. Ví dụ, câu hát “Mà niềm vui dạt dào bên vách nứa” một số người hát: “Mà niềm vui dạt dào bên vách suối”, có người lại hát là “vách núi”, “cũng không sao cả, không làm ảnh hưởng đến nội dung của bài hát”, thầy Cường nói.
Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, tự học nhạc từ sách và đài
Thầy giáo Trần Phú Thế Cường cho biết, không chỉ có Cô giáo Bản Mèo, mà thầy còn là tác giả của rất nhiều ca khúc, như Về miền Tây, Trên biên cương sông Mã,…; một số bài cho các hội, trường và được sử dụng làm bài truyền thống như Bài ca Hội cựu giáo chức Việt Nam.
Đặc biệt, thầy cùng với thầy Văn Nhân là tác giả của hợp xướng Tiếng hát sư phạm (gồm có 4 chương, trong đó, thầy Văn Nhân viết chương 3, chương 4).
Tuy nhiên, thầy Cường lại không phải là người được đào tạo bài bản về nhạc. Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, nhưng thầy đã sớm chịu cảnh vất vả của một cậu bé mồ côi cả cha lẫn mẹ.
“Mẹ tôi mất năm tôi 4 tuổi, còn bố mất khi tôi 7 tuổi. Tôi phải đi ở nhờ những ông chú, bà bác của mình, vừa học vừa làm đủ thứ để có tiền. Tôi say mê âm nhạc nhưng không có điều kiện để học bài bản, tôi đến với âm nhạc bắt đầu từ tự học, qua sách và qua những chương trình dạy hát của Đài Tiếng nói Việt Nam”, thầy Cường chia sẻ.
Trở thành giảng viên của Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội bộ môn Nghệ thuật học, sau này thầy mới có dịp đi học một số chương trình về hòa âm, phối khí do các nhạc sĩ dạy.
Những năm tháng tuổi thơ nhọc nhằn cộng với những ngày tháng trải nghiệm khi xung phong lên vùng cao dạy chữ trước khi trở thành giảng viên đại học, thầy có sự đồng cảm với nỗi vất vả, hy sinh của các thầy cô giáo, thương yêu học trò và yêu nghề dạy.
Ngày thầy lên một điểm trường của Tuyên Quang dạy học, chỉ có nhà tranh vách nứa, thậm chí chỗ đi vệ sinh cũng không có. Các em đều là người dân tộc, rất nghèo. Thầy giáo cũng nghèo, nhưng vẫn dùng cả đồng lương ít ỏi cho các em mua sắn, mua ngô chống đói. Thầy cũng đi mấy chục cây số đường đèo cùng trò về thăm nhà, rồi đá bóng, chơi đùa cùng các em.
Vì thế, thầy Trần Phú Thế Cường cho rằng, giáo viên phải có tình yêu với nghề, với ngành, với con người thì mới gắn bó được với nghề.
"Ngày xưa đi học, không có chuyện quà cáp giáo viên bởi thời gian đó đầy vất vả. Bản thân thầy phải đi dạy bổ túc văn hóa vào buổi tối để lấy tiền. Thời của thầy không có tiền đút lót giáo viên, nhưng các thầy cô rất thương học trò.
Đó là cái tình của con người với con người, cái tình của ngành sư phạm" - thầy Cường nói.
Cũng theo thầy Cường, xã hội phát triển, nhiều thứ thay đổi, trong đó có cả mối quan hệ thầy trò nhưng với các thầy cô giáo, điều quan trọng nhất là tấm lòng, tình cảm của các em học sinh, chứ không phải là vật chất.
Và khi đi dạy, khát vọng lớn nhất của những người thầy vẫn là đem đến tri thức, mong cho các em học giỏi, nên người, sau này có cuộc sống hạnh phúc và dựng xây đất nước.
Cũng vì tình cảm đó, mà mỗi khi bài hát về nghề thầy ra đời được đón nhận, yêu mến với thầy Cường đó là niềm vui rất lớn, dù tác giả dường như bị “lãng quên”.
“Có nhiều người hỏi tôi, vì sao tôi không đăng ký bản quyền tác giả, hoặc không phàn nàn ca sỹ hát mà không ghi tên tác giả? Tôi trả lời: Ai hát cũng được, càng nhiều người hát càng tốt, miễn là truyền được tình yêu đối với nghề giáo, sự tri ân với những thầy cô hết lòng về học sinh thì đó là niềm hạnh phúc lớn lao đối với tôi rồi”, thầy Cường chia sẻ. |
Mai Nguyễn
" alt="Đi tìm tác giả của bài hát Cô giáo Bản Mèo"/>
Đi tìm tác giả của bài hát Cô giáo Bản Mèo
Giữa những ý kiến cho rằng vị thế người thầy ngày nay đã bị giảm sút, thầy giáo Hồ Tấn Nguyên Minh (Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh, Phú Yên) cho rằng dẫu trải qua bao thăng trầm dời đổi, vẻ đẹp của đạo thầy trò ở Việt Nam vẫn không thể mất. Chỉ có điều, mỗi thời có một vẻ đẹp riêng.VietNamNet trân trọng giới thiệu bài viết của thầy giáo Hồ Tấn Nguyên Minh đến độc giả.
|
Thầy giáo Hồ Tấn Nguyên Minh - Tổ trưởng tổ Ngữ văn, Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh (tỉnh Phú Yên) |
Không cao quý hơn, nhưng là nghề may mắn
Năm nào gần đến 20/11 – ngày Nhà giáo Việt Nam, các phương tiện truyền thông cũng đồng loạt phát những đi những bài hát, những đoạn thơ, những chương trình ca ngợi, tôn vinh nghề dạy học. Không ít những lời chúc tụng, ngợi ca được dùng quen như điển tích: nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý, người lái đò vĩ đại, vinh quang thay công việc trồng người…
Bản thân tôi thì đủ tỉnh táo để không dám tự nhận rằng nghề của mình cao quý hơn những nghề khác.
Nghề nào thì cũng vậy thôi, bỏ sức lao động ra mà làm việc, nhận được lương để nuôi sống bản thân, gia đình và ít nhiều gì trong lĩnh vực của mình có những đóng góp nhất định cho xã hội. Chẳng có nghề nào cao quý hơn nghề nào cả.
Tôi lại tự nhận rằng nghề của mình là nghề may mắn. Bởi cũng gọi là thầy (thầy thuốc) nhưng với các bác sĩ, đối tượng của họ là bệnh nhân. Trong khi đối tượng của mình là học sinh – những con người trẻ trung, năng động và đầy sức sống. Như thế là may mắn chứ còn gì nữa.
Hơn nữa làm thầy thì được nói, được truyền đạt những gì mình hiểu, mình biết cho thế hệ sau, nâng đỡ tâm hồn cho các em. Rồi dù sau này, dù già yếu thế nào, dù không còn làm việc nữa vẫn luôn được gọi là thầy, luôn được học sinh hỏi han, thăm viếng. Còn gì vui bằng. Tôi luôn cảm thấy yêu nghề cũng vì lẽ ấy.
Tôi cũng không bi quan về nghề như nhiều bạn đồng nghiệp của tôi khi mà nghề dạy học – ai cũng biết – là một nghề không hứa hẹn gì nhiều về khả năng kinh tế cũng như nhiều thứ khác; khi mà xã hội bày ra nhan nhản những chuyện buồn về sự xuống cấp nghiêm trọng của đạo học: chuyện phụ huynh đánh thầy, chuyện học sinh chửi thầy, chuyện thầy cô giáo thiếu đạo đức, chuyện bạo lực học đường… Những chuyện như vậy khiến không ít người có tâm lí hoài vọng về quá khứ, xem quá khứ là vàng son để rồi chán nản, bi quan về hiện tại.
"Thời ấy ông thầy sao mà sang thế, oai thế, đĩnh đạc thế còn bây giờ thì… chưa bao giờ vị thế, hình ảnh ông thầy thảm hại như lúc này" - những câu đại loại như vậy xuất hiện thường xuyên trong những câu chuyện trà dư tửu hậu của nhiều người.
Tôi thì không nghĩ như vậy. Thời nào cũng vậy thôi, có cái xấu cũng có cái tốt, có cái cao thượng cũng có cái thấp hèn, đan xen trong muôn vàn chiều kích.
Sự bền vững của đạo học phải xuất phát từ hai phía
Đạo thầy trò ở Việt Nam là một truyền thống đẹp. Dẫu bị cuốn trong vòng xoáy ngầu đục của cuộc đời, dẫu trải qua bao thăng trầm dời đổi, vẻ đẹp ấy vẫn không thể mất. Chỉ có điều, mỗi thời có một vẻ đẹp riêng.
Thời nào có giá trị riêng của thời ấy. Không phải ngày xưa không có chuyện xấu. Cũng không phải ngày nay không có chuyện tốt về đạo thầy trò. Chỉ có điều bây giờ thông tin phát triển mạnh quá, facebook, twitter… và bao nhiêu ứng dụng khác. Một cái ho ngay lập tức cũng khiến cả thế giới biết thì nói gì đến đến những chuyện xấu xa trong ngành giáo dục. Mà thói thường, những chuyện xấu thường có sức hấp dẫn hơn rất nhiều so với những chuyện tốt. Nó đủ sức để làm lu mờ những điều tươi sáng nhất.
Trong một thế giới phẳng với tốc độ phát triển đến chóng mặt như hiện nay, những quan niệm về đạo thầy trò, những giá trị về giáo dục cũng khác đi nhiều so với trước.
Ngày xưa, giữa thầy và trò là một khoảng cách khá xa. Trong mắt trò, thầy là những đấng, những bậc tôn nghiêm, phải ngưỡng mộ, phải răm rắp nghe theo, lời của thầy là khuôn vàng thước ngọc, chỉ được lắng nghe, không được nghi ngờ hay phản biện. Hình ảnh người thầy vì thế mà cũng trở nên đạo mạo, trang nghiêm.
Quan hệ thầy trò hiện nay gần gũi, dân chủ, cởi mở hơn rất nhiều. Thầy trò cùng nhau trao đổi, lắng nghe lẫn nhau. Không chỉ trò học thầy mà thầy cũng cũng phải học trò. Trò thương thầy, kính thầy nhưng thầy nói sai thì trò có quyền phản biện. Chính sự dân chủ này dễ khiến nhiều người có cảm giác học sinh leo lên đầu lên cổ thầy, cảm giác hình ảnh người thầy trở nên nhếch nhác, vị thế người thầy trở nên xuống dốc đến thảm hại.
Từ những trải nghiệm trong quá trình dạy học của mình, tôi cho rằng dù ở thời đại nào thì sự bền vững của đạo học và vị thế người thầy đều phải xuất phát từ hai phía: cả thầy lẫn trò.
Chúng ta không thể yêu cầu học sinh phải yêu thương, kính trọng ta trong khi ta thờ ơ, lãnh đạm với các em. Chúng ta không thể yêu cầu xã hội phải tôn vinh ta khi mà ta bỏ qua đạo đức nhà giáo để sống bằng lọc lừa, trí trá. Cuộc đời này tựa một chiếc gương soi, soi vào tròn sẽ nhận được ảnh tròn, soi vào méo sẽ nhận được ảnh méo. Trước khi oán trách cuộc đời, oán trách học sinh cũng nên thử một lần cố gắng nhìn lại mình một chút.
Bạn đọc có lẽ sẽ nghĩ tôi lạc quan thái quá. Không phải tôi không nhìn thấy những xấu xa, đen tối bày ra nhan nhản trong ngành giáo dục. Tôi từng nhiều lần rất đau lòng khi chứng kiến bao nhiêu chuyện tác tệ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến vị thế người thầy trong lòng xã hội.
Nhưng tôi cũng nhìn thấy không ít những trong trẻo, thuần khiết từ tấm gương của biết bao thầy cô giáo, nhìn thấy bao nhiêu yêu thương, trân trọng mà các em học sinh dành cho thầy cô giáo của mình.
Chừng nào người Việt còn trân trọng tri thức, còn biết lo nghĩ cho tương lai của con cháu mình cũng như tương lai dân tộc thì chừng ấy người thầy vẫn còn được trọng vọng, vị thế của người thầy trong xã hội vẫn được đề cao. Tôi luôn tin vào điều đó và vẫn luôn nghĩ nghề của mình là nghề may mắn. Và nếu như được chọn lại, tôi vẫn chọn cái nghiệp làm thầy.
Hồ Tấn Nguyên Minh- Tổ trưởng tổ Ngữ văn, Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh (tỉnh Phú Yên)
Thầy cô còn phải bươn chải kiếm sống, sự tôn kính rất xa vời?
“Lương thấp” dường như là nhìn nhận điển hình về nghề giáo hiện nay. Tuy nhiên, thấp đến mức độ nào thì chưa nhiều người thấy rõ.
" alt="'Chừng nào người Việt còn trân trọng tri thức, vị thế người thầy vẫn được đề cao'"/>
'Chừng nào người Việt còn trân trọng tri thức, vị thế người thầy vẫn được đề cao'