Trong quyết định này, môn Tiếng Hàn và Tiếng Đức được Bộ GD-ĐT xác định là ngoại ngữ 1.Tuy nhiên, trong phần 'Đặc điểm môn học' viết: "Môn Tiếng Hàn - Ngoại ngữ 1 là môn học bắt buộc trong chương trình phổ thông, giảng dạy từ lớp 3 đến lớp 12".
|
Quyết định của Bộ GD-ĐT từ ngày 9/2 |
|
Phần Đặc điểm môn học nêu rõ đây là môn học 'bắt buộc'. Liệu có sự nhầm lẫn? |
Liệu có sự nhầm lẫn khi xác định đây là môn học 'bắt buộc'? Xem giải thích của đại diện Bộ GD-ĐT TẠI ĐÂY.
Sáng nay (4/3), trao đổi với VietNamNet, ông Nguyễn Xuân Thành, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Trung học (Bộ GD-ĐT) cho hay, đây là quyết định về việc thí điểm Tiếng Hàn trở thành một trong những Ngoại ngữ 1. Còn chương trình Tiếng Hàn – Ngoại ngữ 2 thì đã được Bộ GD-ĐT ban hành trước đây.
Với từ “bắt buộc”, ông Thành cho hay không có nghĩa Tiếng Hàn sẽ trở thành môn học bắt buộc, mà từ này dùng để bổ ngữ giải nghĩa cho cụm “Ngoại ngữ 1”.
Tức Ngoại ngữ 1 là môn học bắt buộc trong chương trình phổ thông, học sinh có thể chọn một trong các thứ tiếng được xác định là Ngoại ngữ 1.
“Như vậy, học sinh có thể chọn bất cứ môn học nào trong các môn thuộc nhóm Ngoại ngữ 1 mà không cứng nhắc bắt buộc phải học môn Tiếng Hàn”, ông Thành nhấn mạnh.
Trong khi đó, một chuyên gia giáo dục chia sẻ, có 3 khái niệm liên quan đến thuật ngữ môn học. Đó là: compulsory subjects (môn học bắt buộc), selective subjects (môn bắt buộc có lựa chọn), elective/optional subjects (môn tự chọn, học cũng được, không học cũng chẳng sao).
Môn 'bắt buộc có lựa chọn' là có nhiều sự lựa chọn nhưng bắt buộc phải chọn 1 để học.
Vì vậy, nếu văn bản ghi rõ là 'môn học bắt buộc có lựa chọn' thì sẽ chuẩn xác hơn.
Mục tiêu: Đạt bậc 3 sau khi hết THPT
Bên cạnh việc hình thành và phát triển năng lực giao tiếp bằng tiếng Hàn, theo Bộ GD-ĐT, môn học này còn trang bị kiến thức và kỹ năng học tập ngoại ngữ nói chung; giúp học sinh có thể vận dụng ngoại ngữ một cách hiệu quả trong giao tiếp, học tập, đáp ứng được nhu cầu về nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập quốc tế của đất nước.
Nội dung cơ bản của chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Hàn bao gồm các chủ điểm, chủ đề và kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) được lựa chọn phù hợp với khả năng tiếp nhận của học sinh và được tích hợp vào quá trình rèn luyện, phát triển các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cơ bản.
Các kỹ năng giao tiếp và kiến thức ngôn ngữ được xây dựng trên cơ sở các đơn vị năng lực giao tiếp cụ thể, trong các chủ điểm và chủ đề phù hợp với nhu cầu và khả năng của học sinh nhằm giúp các em đạt được các yêu cầu quy định trong Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam.
Cụ thể, học sinh kết thúc lớp 6 đạt Bậc 1, kết thúc cấp THCS (lớp 9) đạt Bậc 2 và kết thúc cấp THPT (lớp 12) đạt Bậc 3.
Tổng thời lượng chương trình là 1.155 tiết (mỗi tiết 45 phút) bao gồm cả các tiết ôn tập và kiểm tra đánh giá.
|
Ảnh minh họa: Thanh Hùng |
Về nội dung, ở cấp tiểu học (từ lớp 3 đến lớp 5), việc dạy học Tiếng Hàn giúp cho học sinh bước đầu hình thành và phát triển năng lực giao tiếp cơ bản thông qua 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết; trong đó chú trọng nhiều hơn đến 2 kỹ năng nghe và nói.
Ở cấp THCS, việc dạy học Tiếng Hàn tiếp tục giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực giao tiếp, đồng thời phát triển năng lực tư duy và nâng cao sự hiểu biết về văn hóa, xã hội Hàn Quốc và các quốc gia trên thế giới cũng như hiểu biết sâu hơn về văn hóa, xã hội dân tộc mình.
Ở cấp THPT, giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp dựa trên nền tảng chương trình đã được học ở các cấp dưới, trang bị cho học sinh kiến thức và kỹ năng để học tập suốt đời, phát triển năng lực làm việc trong tương lai.
Mục tiêu chung của chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Hàn là kết thúc chương trình phổ thông, học sinh có khả năng giao tiếp đạt trình độ Bậc 3 của Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam.
Giúp học sinh có được hiểu biết khái quát về đất nước, con người và văn hóa Hàn Quốc cũng như các quốc gia và các nền văn hóa khác có liên quan. Qua đó hình thành ở học sinh những thái độ và tình cảm tốt đẹp đối với ngôn ngữ, văn hóa và con người của các quốc gia khác trên thế giới.
Bên cạnh đó, góp phần hình thành và phát triển ở học sinh những phẩm chất và năng lực cần thiết mang tính hướng nghiệp như: ý thức và trách nhiệm lao động, định hướng và lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực, sở thích, khả năng thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Thanh Hùng
Vì sao Bộ GD-ĐT thí điểm Tiếng Hàn, Tiếng Đức là Ngoại ngữ 1?
Bộ GD-ĐT vừa lý giải về việc thí điểm môn Tiếng Hàn và Tiếng Đức là Ngoại ngữ 1 trong chương trình phổ thông.
" alt="Tiếng Hàn trở thành môn học bắt buộc ở Việt Nam từ lớp 3 đến 12?"/>
Tiếng Hàn trở thành môn học bắt buộc ở Việt Nam từ lớp 3 đến 12?
Trường ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn: Bổ nhiệm Trưởng khoa đúng quy địnhTrước những lùm xùm xảy ra tại khoa Hàn Quốc học, Trường ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn TP.HCM đã thông tin về vụ việc.
Theo thông báo của trường này, quy định về tiêu chuẩn, quy trình bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý thuộc thẩm quyền của Hiệu trưởng quyết định năm 2018, trong đó có trưởng khoa Hàn Quốc học, áp dụng các văn bản quy định của Nhà nước, của ĐH Quốc gia TP. Hồ Chí Minh và nhà trường trong việc bổ nhiệm viên chức quản lý thuộc thẩm quyền của Hiệu trưởng.
Đó là: Luật Viên chức; Nghị định số 29/2012 của Chính phủ, Quyết định số 70/2014 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Điều lệ trường đại học (thời điểm bổ nhiệm bà Mai còn hiệu lực); Quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học thành viên và khoa trực thuộc ĐH Quốc gia TP.HCM do ĐH Quốc gia TP.HCM ban hành; Quy chế tổ chức và hoạt động của Trường và các văn bản có liên quan khác.
Theo đó, tiêu chuẩn của trưởng khoa được quy định phải có trình độ tiến sĩ phù hợp với ngành, chuyên ngành đào tạo tại khoa, có đủ tiêu chuẩn giảng viên giảng dạy trình độ đại học, có kinh nghiệm giảng dạy, nghiên cứu khoa học và năng lực quản lý.
"Quy trình bổ nhiệm trưởng khoa được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục: Nhà trường dựa trên các quy định về việc bổ nhiệm viên chức quản lý thuộc thẩm quyền của hiệu trưởng, việc đáp ứng các tiêu chuẩn của cá nhân và tình hình thực tế của đơn vị và của Nhà trường. Quy trình bổ nhiệm trưởng khoa được triển khai công khai, minh bạch tới toàn thể viên chức – người lao động của Trường, dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy, Ban Giám hiệu, giám sát của Công đoàn trường, đại diện Ban chủ nhiệm Khoa đương nhiệm, đại diện Chi ủy, Chủ tịch Công đoàn bộ phận Khoa, đại diện Phòng Tổ chức - Cán bộ và sự tham gia của toàn thể viên chức – người lao động trong Khoa" - trường này khẳng định.
Đối với việc bổ nhiệm bà Nguyễn Thị Phương Mai làm trưởng khoa Hàn Quốc học, trường này thông tin, bên cạnh việc đáp ứng các tiêu chuẩn chung về phẩm chất đạo đức, năng lực, độ tuổi, sức khỏe,… bà Nguyễn Thị Phương Mai hoàn toàn đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn để được bổ nhiệm trưởng khoa theo quy định như: tốt nghiệp tiến sĩ chuyên ngành Giáo dục tiếng Hàn và thạc sĩ chuyên ngành Hàn Quốc học tại Trường ĐH Quốc gia Seoul, Hàn Quốc.
Bà Nguyễn Thị Phương Mai cũng có đầy đủ các văn bằng chứng chỉ theo tiêu chuẩn của giảng viên giảng dạy trình độ đại học, như chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, Chứng chỉ ngoại ngữ, Chứng chỉ ứng dụng công nghệ thông tin cơ bản.
Bà Phương Mai có thâm niên giảng dạy và năng lực nghiên cứu khoa học. Từ năm 2003 đến nay, bà Nguyễn Thị Phương Mai đã tham gia giảng dạy tại Khoa Hàn Quốc học, thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học, tham gia viết sách và có nhiều bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí uy tín trong và ngoài nước.
Bên cạnh đó, bà Nguyễn Thị Phương Mai còn có kinh nghiệm quản lý ở vị trí trưởng bộ môn và phó trưởng khoa trước khi giữ chức vụ trưởng khoa như hiện nay.
Giảng viên xin nghỉ: "Chúng tôi không bộp chộp khi dứt áo ra đi"
Ngày 2/3, phóng viên VietNamNetđã gặp một số giảng viên trong số 11 giảng viên khoa Hàn Quốc học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM nộp đơn xin nghỉ việc. Các giảng viên này cho hay đây là lần đầu tiếp xúc và chia sẻ thông tin về vụ việc với báo chí.
|
11 giảng viên của khoa Hàn Quốc học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM đồng loạt xin nghỉ việc |
Trong 11 giảng viên khoa Hàn Quốc học nộp đơn xin nghỉ, người có thời gian làm việc ít nhất 5 năm, người có thời gian làm việc nhiều nhất là 23 năm. Trong số này, có nhiều giảng viên có trình độ tiến sĩ.
“Đồng ý làm việc thì phải theo “lý” nhưng cũng phải có “tình”. Nhìn lại, khoa Hàn Quốc học từ một bộ môn phát triển thành khoa nổi tiếng như hôm nay, tập thể giảng viên, lãnh đạo khoa từ lúc thành lập đến khi sự việc xảy ra đều sống rất tình cảm, chân tình, đoàn kết. Bằng chứng là khoa đã tổ chức rất thành công nhiều chương trình. Nếu trong quá trình đó, chúng tôi vô kỷ luật thì không thể đạt được điều đó” – một giảng viên cho hay.
Theo các giảng viên, sự việc kéo dài, âm ỉ ở khoa Hàn Quốc học đã lâu và mọi người vẫn mong giải quyết trong nội bộ khoa, mong một cuộc đối thoại và đã nhiều lần gặp nhưng không đi đến kết quả.
Một giảng viên bật khóc khi có ý kiến nói mình không tôn sư trọng đạo như tố thầy của mình, khiến họ cảm thấy bị xúc phạm. Hay việc hiểu nhầm các giảng viên chống đối trưởng khoa chỉ vì quy định đi họp họp trễ 15 phút coi như vắng khiến họ đau lòng.
“Chúng tôi không phản đối nhưng ra quy định mới mà không có thông báo để mọi người nắm trước thì đó là sự áp đặt, chứ không phải vì đi trễ 15 phút. Bản thân chúng tôi làm việc với các đối tác quốc tế, mà trước hết là Hàn Quốc rất đúng giờ nên đều ý thức điều này”- cô nói.
Theo các giảng viên, để đến bước nghỉ việc tập thể, các giảng viên đã đi qua nhiều bước, đã có đơn cầu xin, cầu xét và kiến nghị cả lên Thanh tra Chính phủ…
“Chúng tôi không thể vì lý do nhỏ mà “bộp chộp” dứt áo ra đi. Quyết định ra đi là cả sự trăn trở và nước mắt”.
Theo họ, trong các cuộc họp với nhà trường, giảng viên đã trăn trở rất nhiều. Nhiều người khi phát biểu đã khóc vì xem khoa Hàn Quốc học như ngôi nhà thứ 2.
“Có người nói trước đây khoa Hàn Quốc học chỉ là 1 cái phòng nho nhỏ, cũ kỹ nhưng rất ấm áp còn giờ văn phòng khoa to đẹp nhất trường nhưng không muốn bước lên”.
Những giảng viên này nói rằng, điều khiến họ gắn bó với khoa Hàn Quốc học, với trường không phải vì danh lợi. Bởi nếu nói về đồng lương thì đi làm ở ngoài cao hơn nhiều.
“Điều chúng tôi gắn bó với nghề là đam mê, yêu nghề, muốn truyền đạt lại cho thế hệ sau. Chúng tôi may mắn được đi học nước ngoài, do vậy nhìn thấy sự phát triển của các nước khác mà nguồn gốc phát triển đều từ giáo dục. Đó là lý tưởng của chúng tôi. Các bạn cứ hình dung 6 giờ sáng chúng tôi có mặt ở trường để đi xuống ĐH Quốc gia TP.HCM (nằm giữa địa bàn TP.HCM và Bình Dương) thì có nghĩa là 5 giờ sáng, các giảng viên đã ra khỏi nhà. Chúng tôi giảng dạy đến 18h chiều mới về thành phố. Chúng tôi làm việc trong điều kiện cơ sở vật chất chưa đầy đủ, vậy thì điều gì khiến chúng tôi gắn bó, có phải là đồng lương và danh lợi không?”
Các giảng viên kể, ngày 27 âm lịch tháng Chạp năm 2020 có 4 người nộp đơn xin nghỉ việc; Ngày 28 âm lịch có thêm 4 người nộp đơn và đến mùng 6 Tết thì thêm 3 người nộp đơn xin nghỉ. Đến nay có 3 giảng viên đã nhận được quyết định nghỉ chính thức; 8 giảng viên khác chưa có quyết định nghỉ nhưng điều bất ngờ là được sinh viên thông báo tên họ đã không có trong thời khóa biểu giảng dạy.
Lê Huyền
Hiệu trưởng lên tiếng vụ 11 giảng viên Hàn Quốc học đồng loạt nghỉ việc
11 giảng viên khoa Hàn Quốc học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM cùng lúc xin nghỉ việc.
" alt="Vụ 11 giảng viên Hàn Quốc học nghỉ việc: 'Không bộp chộp mà dứt áo ra đi'"/>
Vụ 11 giảng viên Hàn Quốc học nghỉ việc: 'Không bộp chộp mà dứt áo ra đi'