- Nhận định, soi kèo U20 Bologna vs U20 Fiorentina, 22h00 ngày 27/1: Học tập đàn anh
- Mở đầu tập 17 là cảnh lãng mạn của Đông Quân (S.T Sơn Thạch) và Bảo Anh (Tường Vi) dưới mưa, sau khi Bảo Anh bị sốc vì những lời bình luận tiêu cực của mọi người trong công ty. Trở về nhà, Bảo Anh càng buồn hơn khi biết rằng vì mình mà chị cả và các em phải vất vả kiếm tiền.
Tại đoàn phim, Thủy Tiên (Khánh Linh) liên tục bị mẹ là bà Quỳnh (Cát Tường) gọi điện đòi tiền. Nghe nói là mẹ bị cảm, Bảo Châu lo lắng và đến nhà bà Quỳnh để chuyển tiền hộ Thủy Tiên. Đến nơi, Bảo Châu tình cờ nghe được cuộc trò chuyện của bà Quỳnh và người hàng xóm. Biết được Bảo Châu tới, bà Quỳnh cố tình dựng chuyện rằng mình từng bị cậu chủ cưỡng bức có thai, bị ép làm vợ bé và bị coi là người đẻ mướn cho đến khi sinh được con trai bị đuổi đi.
|
Quỳnh dựng chuyện khiến Bảo Châu hiểu lầm bà nội. |
Trước mặt Bảo Châu, bà Quỳnh tỏ ra lạnh nhạt như muốn che giấu con gái câu chuyện đau lòng này. Với trình đổi trắng thay đen và tài “diễn sâu” đã có từ thời trẻ, bà Quỳnh đã thành công khiến Bảo Châu hoang mang.
Trở về đoàn phim, Bảo Châu chia sẻ tâm sự của mình với Thủy Tiên. Trong lúc hai chị em ôm nhau an ủi nhau thì Kim Sơn (Song Luân) và cô bạn gái diễn viên đứng từ xa chứng kiến. Vốn không thích Bảo Châu và Thủy Tiên nên bạn gái Kim Sơn tranh thủ cơ hội quay lén cảnh “tình tứ” của cặp đôi này. Bảo Minh thấy được chị gái quan tâm chăm sóc cho Thủy Tiên nên hiểu lầm là cả 2 có tình cảm với nhau.
|
Kim Sơn dùng tiền để thuê Bảo Châu là trò cá độ. |
Sau lần được Bảo Châu vớt vát lại danh dự, Kim Sơn có ý định tuyển cô để chơi cá độ với đám bạn. Bảo Châu tức giận ra giá 1 tỷ nếu Kim Sơn muốn thuê. Kim Sơn dự định cá với đối thủ 5 vòng, mỗi vòng 20.000 USD. Nhưng vừa nhìn thấy đại diện của đội bạn là nhà vô địch bắn cung Đông Nam Á, cả hai vội vàng tìm cớ rút lui. Dù vậy, Kim Sơn vẫn chi một số tiền lớn cho Bảo Châu coi như tiền xăng xe. Chán nản trước cậu ấm xài tiền như nước, Bảo Châu tỏ ra bất cần, bảo rằng không đủ 1 tỷ thì không nhận.
|
Chị em Bảo Trâm cãi nhau vì chuyện tìm bố mẹ. |
Cuối tập 17 là tình huống căng thẳng khi lần đầu tiên cả 4 đứa cháu bà Hạ Lan cãi cọ bất hòa. Bảo Châu cãi lời chị cả, quyết không ngừng tìm kiếm bố mẹ ruột, khiến Bảo Trâm (Lê Khánh) nóng giận đòi từ mặt em gái.
Trước mặt các chị em, Bảo Châu nói rằng mẹ là nạn nhân, đã bị bà nội đuổi ra khỏi nhà sau khi sinh được Bảo Minh. Những lời này khiến Bảo Trâm tức giận, Bảo Minh nằng nặc muốn biết sự thật trong khi Bảo Anh khóc và không muốn vì tìm lại bố mẹ mà lại mất tình chị em.
Tập 18 Gạo nếp gạo tẻ phần 2 sẽ phát sóng lúc 20h ngày 22/07 trên HTV2.
T.N
'Gạo nếp gạo tẻ 2' tập 16, gia đình cầm nhà lấy tiền chữa mắt cho Bảo Anh
Tập 16 Gạo nếp gạo tẻ phần 2 không chỉ gây bức xúc với chàng rể tham tiền Thiên Long mà còn khiến khán giả cảm động khi cả gia đình cũng đã quyết định cầm cố căn nhà để lo chi phí chữa mắt cho Bảo Anh.
" alt=""/>Gạo nếp gạo tẻ 2 tập 17: Quỳnh dựng chuyện khiến Bảo Châu hiểu lầm bà nội
|
Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Quảng đảnh lễ chư vị Tổ sư trong vườn tháp thuộc tổ đình |
Thời gian kiến lập tổ đình của Tổ Thiệt Thoại nhằm vào thời vua Lê Dụ Tông năm Bảo Thái thứ 2, tương đương thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) cai quản Đàng Trong. Tổ Thiệt Thoại - Tánh Tường thuộc dòng thiền Lâm Tế, chi phái của ngài Vạn Phong - Thời Úy (1303-1381) theo bài kệ: Tổ đạo giới định tông/ Phương quảng chứng viên thông/ Hành siêu minh thiệt tế/ Liễu đạt ngộ chơn không.
Theo kệ truyền thừa thì Tổ Thiệt Thoại thuộc đời 35, dòng Lâm Tế, tính từ Tổ khai dòng thiền này là Thiền sư Nghĩa Huyền (?-866/867). Theo chi phái Lâm Tế do Tổ Vạn Phong (chùa Thiên Đồng, Trung Hoa) khai lập thì ngài thuộc thế hệ thứ 14 (chữ Thiệt). Ngài là đệ tử của Tổ Minh Vật - Nhất Tri (?–1786), trụ trì chùa Quốc Ân Kim Cang. Ngài Minh Vật - Nhất Tri là đệ tử của Tổ Nguyên Thiều. Ngoài dòng kệ truyền thừa chi phái Lâm Tế của Tổ Vạn Phong, Tổ Nguyên Thiều còn truyền thừa cho đệ tử dòng kệ của Tổ Đạo Mân - Mộc Trần hay còn gọi là dòng Lâm Tế Gia Phổ theo bài kệ: Đạo bổn nguyên thành Phật tổ tiên…
Như vậy, chùa Huê Nghiêm do Tổ Thiệt Thoại khai sơn trực thuộc môn phong của tổ đình Quốc Ân Kim Cang. Tổ không chỉ khai sơn chùa Huê Nghiêm, mà còn khai sơn chùa Long Thọ (Thủ Dầu Một, Bình Dương). Tổ Thiệt Thoại có các đệ tử như Tế Giác - Quảng Châu, Tế Lý - Quảng Đức, Tế Vĩnh - Quảng Nhơn… là những thiền sư nổi tiếng trong vùng, có công đem Phật pháp hoằng hóa trong dân chúng, là bậc long tượng thiền môn.
|
Tháp Tổ Thiệt Thoại trong khuôn viên tổ đình |
Ngài Tế Giác xuất gia với Tổ Thiệt Thoại khi Tổ đã cao niên. Thấy được căn cơ của ngài Tế Giác nên Tổ đã khuyên ngài về cầu pháp tu học với Tổ Phật Ý - Linh Nhạc tại chùa Từ Ân. Khi đến cầu pháp với Tổ Phật Ý, ngài được Tổ giao cho đệ tử là ngài Tổ Tông - Viên Quang (1758-1827) dạy dỗ. Ngài được Tổ Viên Quang đặt cho húy hiệu là Tiên Giác - Hải Tịnh.
Năm 1825, Tổ Hải Tịnh được vua Minh Mạng vời ra làm Tăng cang chùa Linh Mụ. Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), ngài được triều đình cử làm Tăng cang chùa Giác Hoàng trong kinh thành Huế. Về sau Tổ Hải Tịnh đã xin từ chức Tăng cang chùa Giác Hoàng, về lại Gia Định lưu trú tại chùa Giác Lâm. Những năm cuối đời, Tổ đã xiển dương Chánh pháp qua việc độ chúng xuất gia, tại gia; khai mở trường hương, phát triển việc giảng dạy cho chư Tăng như Tổ Viên Quang đã làm trước đó; mở các Đại giới đàn tại chùa Tây An (An Giang), chùa Thiên Ân (Gia Định). Tổ là người có ảnh hưởng đối với Tăng sĩ, quần chúng tại kinh thành Huế và cả miền Nam lúc bấy giờ, là nhà sư “có đức độ, được ca ngợi khắp miền, trải qua 73 năm hành đạo, không lúc nào nhà sư quên đi sự hưng suy của đạo pháp”.
Sau khi Tổ Thiệt Thoại viên tịch, Tổ Tế Lý kế thế trụ trì chùa Huê Nghiêm. Tổ là người có kiến thức và đạo hạnh nên được người trong vùng quy kính. Do chùa lúc bấy giờ nằm ở vùng gần nhánh sông Sài Gòn, vị trí thấp, Tổ có ý dời chùa và được bà Nguyễn Thị Hiên là đệ tử tại gia của Tổ hộ trì, hiến cúng đất để di dời chùa về địa điểm hiện nay, cách chùa cũ khoảng 1km.
Trải qua các đời trụ trì, ngôi cổ tự Huê Nghiêm được trùng tu nhiều lần. Cuối thế kỷ XIX, Tổ Huệ Lưu đứng ra vận động dân làng và nhân dân quanh vùng trùng tu lớn tổ đình. Những lần trùng tu sau này vào các năm 1960, 1969, 1990, 2003 do Tổ Thiện Bửu, Tổ Trí Đức, Hòa thượng Trí Quảng, Hòa thượng Trí Độ vận động. Đến năm 2011, Hòa thượng Thích Trí Quảng (viện chủ tổ đình) và Thượng tọa Thích Minh Đạo vận động đại trùng tu chánh điện với diện mạo như hôm nay.
Hiện nay chùa còn khu vườn tháp với các ngôi tháp cổ của Tổ Thiệt Thoại, Tổ Tế Lý, Tổ Liễu Xuân, Tổ Huệ Lưu, Tổ Thiện Bửu, Tổ Trí Đức và tháp của các ngài kế tự, Tăng chúng.
|
Hình ảnh và linh vị bà Nguyễn Thị Hiên thờ tại tổ đình |
Giai thoại về bà Hộ Hiên
Bà Nguyễn Thị Hiên (1763-1821) là một người giàu có ở làng Linh Chiểu Đông, thuộc Thủ Đức ngày nay. Bà lại có tấm lòng giúp đỡ người và thường ủng hộ các việc công ích của làng nên người trong vùng thường gọi là bà Hộ Hiên.
Theo lời Hòa thượng Thích Trí Quảng, bà Nguyễn Thị Hiên là đệ tử của Tổ Tế Lý, được ngài ban cho pháp danh Liễu Đạo. Với lòng ngưỡng mộ và quy kính Tổ Tế Lý, bà đã phát tâm hiến cúng đất nơi gò cao để di dời chùa khỏi vị trí ban đầu ở vùng đất thấp ven sông. Tương truyền, lúc cuối đời, bà Hộ Hiên đã vào chùa ở. Từ đó, có hai cách lý giải xung quanh sự việc này: hoặc cuối đời bà vào chùa ở như những người già, muốn nương nơi cửa chùa để sớm hôm kinh kệ cùng Tăng chúng và nhờ chùa lo hậu sự; hoặc bà vào chùa xuất gia tu tập.
Bức họa truyền thần và bài vị của bà Hộ Hiên đang được thờ tại hậu tổ của chùa lại cho thấy đây là bài vị của một cư sĩ: “Phụng vị Hoa Nghiêm tự, hội chủ Nguyễn Thị Hiên, pháp danh Liễu Đạo, tự Thành Tâm chánh hồn, Quý Mùi niên, lương nguyệt, cát thời thọ sanh, Tân Tỵ niên, lục nguyệt, sơ nhất nhật phù thời khứ”- dịch: Chùa Hoa Nghiêm, hội chủ Nguyễn Thị Hiên, pháp danh Liễu Đạo, tự Thành Tâm. Sanh ngày lành giờ tốt, năm Quý Mùi. Mất năm Tân Tỵ, ngày mùng 1 tháng 6. Theo như lối đề văn từ của bài vị, chữ “chánh hồn” dành cho người nữ và “thần hồn” dành cho người nam, không phải là người xuất gia; người xuất gia sẽ dùng chữ “chơn linh” hoặc “giác linh”. Thứ nữa, bài vị cũng cho biết thông tin bà Hộ Hiên là “hội chủ” chùa Huê Nghiêm, tức là người cúng đất làm chùa, dân gian còn gọi là “chủ chùa”. Thường thì những người hiến cúng đất dựng chùa hoặc xây dựng chùa, khi mất, nhà chùa thường thiết lập một bàn thờ riêng với bài vị thờ và hương khói húy kỵ hàng năm. Cũng có thể cuối đời bà vào chùa ở làm “bà vãi” như chúng ta thường được biết với cách “xuất gia thọ tam quy ngũ giới”. Với bức hình họa bà mặc áo gấm thụng với chiếc mão Quan Âm, cũng có cách lý giải cho rằng có thể bà đã thọ giới Bồ-tát với Tổ Tế Lý.
Đối với chùa Huê Nghiêm, sự ly kỳ gắn với câu chuyện tương truyền về hậu thân của bà Nguyễn Thị Hiên. Thầy chúng tôi kể rằng, từ lúc xuất gia đã nghe câu chuyện về sự tái sanh của bà chủ chùa. Khi bà Hiên mất, có nhờ người viết lên tay những thông tin của bà để chứng tỏ công đức bà làm được. Cùng năm bà mất (1821) thì bên nhà Thanh (Trung Hoa), thê thiếp vua Gia Khánh cũng hạ sanh một hoàng nữ. Lúc công chúa sinh ra, bàn tay cứ nắm chặt lại, khi được mở ra thì có dòng chữ: Nguyễn Thị Hiên, Linh Chiểu Đông thôn, Gia Định, Đại Nam. Vua nhà Thanh sai người đi điều tra, xác minh lai lịch bà Nguyễn Thị Hiên thì chứng thực bà đã sống tại chùa Huê Nghiêm, làng Linh Chiểu Đông. Sau đó vua cho sứ sang xây ngôi mộ bà lại, đồng thời hiến cúng tượng Bồ-tát Quan Thế Âm và một số pháp khí. Tượng Bồ-tát Quan Thế Âm bằng đồng hiện nay vẫn còn được thờ tại chùa.
Chúng tôi về tổ đình Huê Nghiêm khi trời đã về chiều. Lần tìm ra khu vực nghĩa trang phía sau chùa, ngôi mộ cổ được xây bằng hợp chất ô dước theo kiểu thức đặc trưng của mộ cổ Nam Bộ nằm lặng lẽ ở một góc nghĩa trang. Ngôi mộ bề thế, gần 20m2nằm lọt thỏm, thấp hơn mặt đất xung quanh. Kiến trúc ngôi mộ cổ vẫn còn nguyên vẹn với vòng thành, bình phong, nhà bia, nấm mộ. Chỉ tiếc một điều, giờ đây không còn sự u tịch trang nghiêm; thay vào đó là cảnh hoang tàn, hủy hoại theo thời gian và sự xâm lấn của người đời sau.
Theo Pháp Đăng/Báo Giác Ngộ
Chú cún thoát chết trong vụ tiêu hủy chó ở Cà Mau được nuôi ở chùa
Trên đường chở 17 con chó về Cà Mau, anh Hùng gửi tặng cho nhóm tình nguyện và người dân 2 chú chó con.
" alt=""/>Huê Nghiêm: Ngôi tổ đình 300 năm tuổi ở đất Sài Gòn
- Tượng đôi sư tử đá chùa - đền Bà Tấm hiện được đặt trang trọng tại tòa Tam bảo của chùa. Đây là hai bệ đặt tượng Phật tạo hình hai con sư tử, được nghệ nhân chú tâm diễn tả bộ mặt với thần thái uy nghi và sống động, mà không quan tâm tới hình thể, tạo nên một sự khác biệt, với sự pha trộn giữa tượng tròn và phù điêu, mà phù điêu vốn là một thế mạnh trong nghệ thuật điêu khắc thời Lý, ta đã được chiêm ngắm qua các lan can thành bậc và viền bia của thời đại này còn lại đến hôm nay.
|
Tượng đôi sư tử đá chùa - đền Bà Tấm hiện được đặt trang trọng tại tòa Tam bảo của chùa. |
Biểu tượng đỉnh cao của kỹ thuật điêu khắc đá
Cả hai tượng sư tử được tạo tác trong tư thế nằm thủ phục, đường nét mềm mại, mang vẻ đẹp vừa uyển chuyển, vừa mạnh mẽ. Các hình khối trên mặt sư tử được nhấn mạnh qua những nét đục, chạm vừa uyển chuyển, vừa khỏe khoắn: Trán sư tử ngắn, tựa như trán lạc đà, giữa trán chạm chữ “Vương” biểu hiện quyền năng tối thượng của linh vật. Dưới chữ “Vương” là một u tròn lớn được viền quanh nhiều u tròn nhỏ, dưới đó là chiếc mũi to bè, chạm nhiều đường cong song hành, đều đặn. Mắt giọt lệ kép, viền phía trên là hàng hoa văn dấu hỏi tròn (cánh hoa cúc) để cùng với khối mắt to, lồi, tạo nên một ấn tượng mạnh trước những đệ tử chiêm bái.
Tuy nhiên, để tạo được “hồn” cho đôi mắt, nghệ nhân đã tạo cho đôi mắt ấy hàng mi cong uốn lượn, đuôi mắt vuốt dài, khiến có được cảm giác thanh thoát, uyển chuyển, mà nghệ thuật điêu khắc thời Lý đã đạt tới đỉnh cao. Miệng sư tử mở rộng để lộ hàm răng, lưỡi đỡ viên ngọc, quanh mép là băng hồi văn xoắn ốc. Má chạm nổi băng hoa nhiều cánh xoắn ốc. Cổ đeo dây lục lạc. Tai sư tử đặt trên mang bạnh, sau mang là những bờm tóc thể hiện bằng nhiều hàng hoa văn xoắn móc. Chân sư tử có 5 móng chim ưng, đang trong tư thế động.
Theo Phật giáo, hình tượng sư tử là hiện thân của sức mạnh trí tuệ, song với những biểu tượng của tinh tú trên thân, sư tử đá chùa – đền Bà Tấm còn mang ý nghĩa cõng bầu trời chuyển động.
Theo sử sách và nguồn tư liệu thành văn, cùng kết quả khai quật khảo cổ học nhiều mùa tại chùa – đền Bà Tấm đã chứng minh di tích này được xây dựng từ thời Lý. Những giá trị vật chất hiện còn tại đây cho thấy đôi sư tử chùa - đền Bà Tấm là hiện vật gốc gắn liền với di tích này ngay từ khi khởi dựng.
Đôi sư tử đá chùa - đền Bà Tấm là một biểu tượng đỉnh cao của kỹ thuật điêu khắc đá, thể hiện bàn tay tài hoa và óc thẩm mỹ cao của nghệ nhân thời Lý. Không bị dập khuôn theo một hình mẫu nhất định, nghệ nhân đã thực sự sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật, mang đậm dấu ấn thời đại mà nó được sản sinh. Điều đó đòi hỏi một sự hội tụ của trí tuệ, của óc tưởng tượng, của tình cảm và tài nghệ điêu luyện của những nghệ nhân bậc thầy, để có thể sáng tạo nên những tác phẩm quý giá như thế. Đây là hai trong số không nhiều loại hình hiện vật tiêu biểu về nghệ thuật điêu khắc đá thời Lý hiện biết cho đến nay ở nước ta.
|
Bảo vật quốc gia: Tượng đôi sư tử đá đền – chùa Bà Tấm. |
Tính truyền thống, sự kế thừa, phát huy và sáng tạo của văn hóa nghệ thuật Lý
Sự độc đáo của tượng đôi sư tử đá ở đây thể hiện với hình tượng sư tử - một linh vật Phật giáo - làm bệ đỡ cho tượng Phật. Trên tác phẩm thể hiện các đường nét chạm khắc khỏe mạnh, tinh tế, mang nhiều ý nghĩa triết lý đạo Phật thời bấy giờ, đồng thời, thể hiện rõ sự uy nghiêm, quyền năng của một linh vật mang dấu ấn và phong cách thời đại – phong cách đã tạo nên dấu mốc đậm nét trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam ở thế kỷ XII.
Đặc biệt, sự độc đáo của đôi sư tử ở di tích chùa – đền Bà Tấm còn toát lộ, bên cạnh chất tượng tròn được coi là di sản điêu khắc Phật giáo sớm nhất và đẹp nhất thuộc thời Lý hiện còn ở Việt Nam, thì đây còn là tác phẩm điêu khắc đá mang tính phù điêu điển hình. Những thành tựu, thế mạnh của điêu khắc Phật giáo thời Lý được hội tụ trong tác phẩm này, tạo nên sự độc đáo chưa từng thấy trong nghệ thuật điêu khắc đá và đất nung thời Lý.
Tượng thời Lý nói chung, tượng sư tử ở di tích chùa - đền Bà Tấm nói riêng là sản phẩm của thời đại “phục hưng” của nền văn hóa dân tộc - một thời đại mà mọi tinh hoa truyền thống được hội tụ, mọi sáng tạo của thời đại được phát huy sau nghìn năm chống Bắc thuộc bị kìm hãm để nhanh chóng xác lập nên một phong cách vững vàng, ổn định, giàu sắc thái riêng, mở đầu cho một nền nghệ thuật độc lập ở các thời đại sau này của lịch sử Đại Việt.
Nói cách khác, qua việc tìm hiểu phong cách nghệ thuật từ đôi sư tử ở chùa – đền Bà Tấm, chúng ta thấy tính truyền thống, sự kế thừa, phát huy và sáng tạo của văn hóa nghệ thuật Lý như một bước khởi đầu cho nghệ thuật tạo hình Đại Việt, đồng thời tạo nên một cơ tầng vững chắc cho những giai đoạn sau, xác lập nên một bản sắc riêng biệt mà cho đến nay, dù đã trải qua bao thăng trầm của lịch sử, văn hóa dân tộc vẫn không bị hòa tan.
Cụm di tích chùa - đền Bà Tấm đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng cấp Quốc gia từ năm 1996. Có thể khẳng định di tích chùa - đền Bà Tấm là một cụm di tích nổi tiếng, có lịch sử gắn liền với lịch sử Thăng Long - Hà Nội hơn một ngìn năm tuổi.
Với những giá trị đặc biệt tiêu biểu, tượng đôi sư tử đá chùa - đền Bà Tấm xứng đáng được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia đợt 8 vừa qua.
Tượng sư tử chùa - đền Bà Tấm là hiện vật gắn với một di tích nổi tiếng (quốc tự) và một danh nhân có tầm ảnh hưởng lớn trong lịch sử Vương triều Lý: Nguyên Phi - Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan. Di tích chùa - đền Bà Tấm (Linh Nhân Tư Phúc Tự), xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội là một cụm di tích kiến trúc và danh thắng nổi tiếng của Hà Nội, mang tính chất quốc tự, gắn liền với tên tuổi, cuộc đời và sự nghiệp của Nguyên Phi Ỷ Lan. Những dấu son trong lịch sử Vương triều Lý có công lao đóng góp của bà - người con gái tài sắc vẹn toàn, có tài thay vua nhiếp chính, trông coi việc nước, là niềm tự hào của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống, cũng như trong sự nghiệp xây dựng nước nhà cường thịnh về kinh tế, chính trị, văn hóa, mở mang đạo Phật trong thời bình. Bà là người cho xây dựng nhiều đền, chùa Phật giáo lớn như chùa Bà Tấm, chùa Hương Lãng (Hưng Yên)... Sử cũ chép rằng, riêng Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan đã xây dựng trước, sau hơn 100 ngôi chùa nhưng chỉ một số ít còn lại đến ngày nay. Đương thời, để tỏ lòng biết ơn ân đức cao dày của bà đối với dân lành, nhân dân đã tôn bà là Quan Âm nữ, Bà Tấm... Theo sử sách và truyền thuyết dân gian, chùa Linh Nhân Tư Phúc Tự do chính Linh nhân Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan cho xây dựng và khánh thành vào tháng 3 năm Ất Mùi (1115). Năm 1117, khi bà qua đời, được hóa thân thành Thánh thì ngôi đền thờ bà cũng được xây dựng trong khuôn viên Chùa. Dấu tích vật chất của ngôi chùa thời Lý còn lưu giữ qua tượng đôi sư tử đá được đặt trang trọng tại tòa Tam bảo của di tích, cùng với thành bậc chim phượng, chân tảng đá hoa sen, một số chim uyên ương có niên đại tương đồng, được phát hiện qua khai quật khảo cổ học tại di tích những năm gần đây. Từ thế kỷ XVII-XVIII về sau, nhiều Vương phi, Quận chúa họ Trịnh cùng dân thập phương đã nhiều lần tu bổ, được ghi lại trên các tấm bia lưu tại di tích như: bia Đức Long thứ 6 (1645) hay bia Bảo Đại thứ 18 (1943). Vì vậy, tại đây còn lưu giữ được nhiều dấu tích nghệ thuật của thời Lý, Mạc, Lê Trung Hưng và Nguyễn. |
Tình Lê
" alt=""/>Bảo vật quốc gia: Tượng đôi sư tử đá đền – chùa Bà Tấm