Chỉ số Chuẩn bị cho tương lai (Worldwide Educating for the Future Index) do Economist Intelligence Unit (EIU) công bố đã đánh giá hệ thống giáo dục ở 35 nền kinh tế với 3 nhóm chỉ số chính gồm có: môi trường chính sách giáo dục, môi trường giảng dạy, môi trường kinh tế xã hội.
3 nhóm chỉ số này được chia cụ thể thành 16 chỉ số nhỏ để đưa ra kết quả chung cuộc, trong đó nhóm chỉ số môi trường giảng dạyđược đánh giá là quan trọng nhất - chiếm 50% số điểm.
Việt Nam được xếp vị trí 28/35 trong bảng xếp hạng chung cuộc.
Trong đó, chỉ số về môi trường chính sách giáo dục xếp thứ 25, môi trường giảng dạyxếp 26, môi trường kinh tế xã hộixếp 33.
Một số hạng mục nhỏ đáng lưu ý gồm có: mức lương trung bình của giáo viên phổ thông xếp cuối cùng – 35, chỉ số xã hội cởi mở và tự doxếp thứ 33; trong khi đó, chỉ tiêu chi tiêu cho giáo dục sau phổ thôngxếp khá cao - đứng thứ 10.
![]() ![]() |
Bảng xếp hạng về chi tiêu dành cho giáo dục sau phổ thông của 35 quốc gia được đánh giá |
![]() ![]() |
Bảng xếp hạng về mức lương trung bình dành cho giáo viên phổ thông của 35 quốc gia được đánh giá |
New Zealand, Canada và Phần Lan là 3 quốc gia giữ thứ hạng cao nhất trong một nghiên cứu đánh giá về mức độ hiệu quả của hệ thống giáo dục ở 35 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Đối tượng của nghiên cứu này là học sinh, sinh viên từ 15 tới 24 tuổi.
Báo cáo tập trung vào các yếu tố “đầu vào” như: chi tiêu của Chính phủ dành cho giáo dục sau trung học, chất lượng đào tạo giáo viên, sự đa dạng văn hóa, thay vì đánh giá yếu tố “đầu ra” như điểm thi; từ đó đánh giá về cách mà học sinh sẵn sàng để làm chủ các kỹ năng như: giải quyết vấn, tư duy phản biện, khả năng điều hướng một thế giới tự động hóa và số hóa ngày một cao.
Khi cả ba yếu tố về môi trường được xem xét thì những quốc gia có dân số nhỏ và giàu thường được đẩy lên vị trí đầu bảng.
5 quốc gia có xếp hạng cao nhất lần lượt là: New Zealand, Canada, Phần Lan, Thụy Sĩ và Singapore. Vương quốc Anh đứng thứ 6, trong khi Mỹ xếp thứ 12.
New Zealand cũng đứng đầu bảng trong hạng mục “môi trường giảng dạy” – yếu tố chiếm 50% điểm số tổng thể.
Theo báo cáo, quốc gia này cũng giành được trọn vẹn điểm cho các chỉ số: khung chương trình giảng dạy, sự hiệu quả của hệ thống thực hiện chính sách, đào tạo giáo viên, chi phí dành cho giáo dục, định hướng nghề nghiệp ở trường, sự hợp tác giữa các trường đại học và doanh nghiệp, đa dạng văn hóa.
“Có 2 lý do đằng sau sự thành công này. Thứ nhất, New Zealand xem việc giáo dục để chuẩn bị cho các kỹ năng tương lai là một mệnh lệnh chiến lược được đồng thuận cao. Họ là một đất nước nhỏ và xa xôi, với sự tự nhận thức rằng họ có ít sự lựa chọn nhưng phải cạnh tranh toàn cầu” – nghiên cứu cho hay.
“Thứ hai, New Zealand có một sự tiếp cận có hệ thống được điều hướng bởi Chính phủ để hệ thống giáo dục phù hợp với mục đích thông qua công nghệ, giảng dạy, chương trình, sự hợp tác với ngành công nghiệp”.
![]() ![]() |
Các chỉ số để đánh giá mức độ chuẩn bị cho tương lai của các nền giáo dục |
Singapore là quốc gia dẫn đầu trong hạng mục “môi trường chính sách giáo dục”, trong khi Phần Lan đứng đầu về “môi trường kinh tế xã hội”.
Tuy nhiên, hơn một nửa quốc gia được đánh giá trong bảng xếp hạng này đang không đầu tư hoặc đánh giá các kỹ năng cần cho tương lai một cách hiệu quả.
Nghiên cứu nhấn mạnh Đài Loan – đứng thứ 19 chung cuộc mặc dù rất có uy tín về giảng dạy các lĩnh vực STEM, trong khi quốc gia khởi nghiệp Israel là một “sự thất vọng lớn” với vị trí thứ 26.
Hai quốc gia cung cấp lực lượng lao động lớn nhất thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ cũng xếp vị trí dưới mức trung bình – lần lượt 29 và 31.
Ngược lại, Argentina lại thành công với vị trí thứ 20.
Quốc gia Mỹ La-tin này có thu nhập trung bình được xếp hạng cao nhất trong bảng xếp hạng. Argentina cũng cho thấy những dấu hiệu tiến bộ đáng kể ở các chỉ số như: chất lượng đào tạo giáo viên, chi tiêu cho giáo dục, khung đánh giá và chương trình học.
Nghiên cứu cũng cho thấy một mối tương quan mạnh mẽ giữa một xã hội cởi mở và khả năng chuẩn bị cho người trẻ đáp ứng yêu cầu của tương lai.
Nguyễn Thảo(Theo Times Higher Education)
" alt=""/>Việt Nam xếp vị trí 28/35 về chỉ số chuẩn bị cho tương laiTheo đó, UBND TP Đà Nẵng thống nhất ý kiến của Sở Xây dựng về việc hình thành Trường Tiểu học, THCS, THPT St.Nicholas tại khu đất số 458 đường Nguyễn Hữu Thọ là không đúng quy hoạch, quy chuẩn xây dựng và giấy phép xây dựng được cấp.
![]() |
Trường St.Nicholas |
Phó Chủ tịch UBND TP giao Sở GD-ĐT, UBND quận Cẩm Lệ làm việc với đại diện trường St.Nicholas để nghiên cứu, đề xuất phương án chấm dứt hoạt động giáo dục tại công trình nói trên.
Đồng thời, UBND TP giao 2 cơ quan trên xây dựng phương án di dời học sinh, giáo viên hoặc xây dựng cơ sở mới bảo đảm đúng quy hoạch, quy chuẩn xây dựng hiện hành. Các báo cáo đề xuất này gửi UBND TP xem xét, quyết định trong tháng 9.
Được biết, trường St.Nicholas do Công ty CP Đầu tư giáo dục Mudd Harvey Việt Nam làm chủ đầu tư, đã tuyển sinh và đi vào hoạt động từ năm học 2018-2019.
Trước đó, công trình này được cấp phép để xây dựng văn phòng với quy mô một tầng hầm và 9 tầng nổi. Nhưng sau đó, Công ty này "biến" nơi đây trở thành trường quốc tế với quy mô một tầng hầm và 4-5 tầng nổi.
Sau đó, Sở GD-ĐT kiểm tra, thẩm định để làm tờ trình UBND thành phố cho phép thành lập trường.
Trên website trường này xưng là Trường quốc tế St. Nicholas. Tuy nhiên, trả lời về tên gọi của trường này, Sở GD-ĐT TP Đà Nẵng cho biết theo Quyết định thành lập thì tên gọi của trường là "Trường Mầm non, Tiểu học, THCS, THPT St.Nicholas" không gắn kèm chữ "quốc tế".
Nếu gắn thêm cụm từ "quốc tế" trong các giao dịch là không đúng với quy định.
Hồ Giáp
- Tận mắt thấy suất ăn của con ở trường quốc tế, phụ huynh bức xúc, khi tiền ăn lên tới trăm nghìn, nhưng suất cơm chỉ lèo tèo vài miếng thịt.
" alt=""/>Xây sai mục đích, Đà Nẵng yêu cầu trường St.Nicholas dừng hoạt độngBên cạnh Trưởng ban là Thứ trưởng Nguyễn Huy Dũng, Ban điều hành Đề án còn có Phó Trưởng ban là Cục trưởng Cục An toàn thông tin (Bộ TT&TT) Nguyễn Thành Phúc.
Chín thành viên thường trực Ban chỉ đạo gồm: Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học (Bộ GD&ĐT) Phạm Thiện Nghệ; Thiếu tướng Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh 86 (Bộ Quốc phòng) Tống Viết Trung; Thiếu tướng, Phó trưởng ban Cơ yếu Chính phủ Nguyễn Nam Hải; Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội An toàn thông tin Việt Nam Vũ Quốc Thành;
Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ (Bộ TT&TT) Đỗ Trí Dũng; Phó Cục trưởng Cục Tin học hóa (Bộ TT&TT) Trần Thị Quốc Hiền; Giám đốc Học viện Kỹ thuật Mật mã Nguyễn Hữu Hùng; Phó Giám đốc Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông Đặng Hoài Bắc; Trung tá, Trường phòng 1, Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (Bộ Công an) Thái Bá Sơn.
Ngoài ra, Ban điều hành còn có 12 thành viên đến từ nhiều cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp: Vụ Giáo dục Trung học thuộc Bộ GD&ĐT; các Vụ Kế hoạch Tài chính, CNTT, Khoa học công nghệ và Cục An toàn thông tin của Bộ TT&TT; Học viện Kỹ thuật Quân sự, Học viện An ninh nhân dân; Đại học FPT; Đại học Duy Tân; VNPT, BKAV, Viettel Cyber Security.
Cục An toàn thông tin, Bộ TT&TT là cơ quan thường trực Ban điều hành, có nhiệm vụ giúp việc, tổ chức các hoạt động của Ban, triển khai thực hiện các hoạt động chung của Đề án đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nguồn nhân lực ATTT giai đoạn 2021 – 2025.
![]() |
So với giai đoạn 2014 - 2020, Đề án mới đã mở rộng phạm vi đào tạo ra các cơ quan, tổ chức của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội và mạng lưới ứng cứu sự cố khẩn cấp ATTT (Ảnh minh họa) |
Tại Đề án đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ATTT giai đoạn 2021 - 2025 phê duyệt đầu tháng 1, Thủ tướng Chính phủ đã xác định rõ quan điểm: “Đào tạo, phát triển đội ngũ nhân lực ATTT là nội dung quan trọng để hiện thực hóa tầm nhìn đưa Việt Nam trở thành cường quốc về ATTT, góp phần triển khai thành công Chương trình chuyển đổi số quốc gia, phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số và nâng cao uy tín, xếp hạng quốc tế của Việt Nam về ATTT theo đánh giá của Liên minh Viễn thông quốc tế”.
Đề án đặt ra các mục tiêu cụ thể như: Tổ chức 6.000 lượt đào tạo ngắn hạn về kiến thức, kỹ năng ATTT của người dùng cho các công chức, viên chức và người lao động có sử dụng thiết bị CNTT khi làm việc của các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế của nhà nước; Lựa chọn và tổ chức đào tạo 200 chuyên gia ATTT để bảo vệ cho các hệ thống thông tin của Đảng và Nhà nước; Đưa 150 giảng viên, nghiên cứu viên đi đào tạo, bồi dưỡng cập nhật về ATTT ở nước ngoài, trong đó có tối thiểu 70 tiến sĩ; Đào tạo 5.000 thạc sỹ, kỹ sư, cử nhân ATTT...
Để đạt được các mục tiêu trên, Đề án đưa ra 9 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm gồm: Đào tạo ngắn hạn về ATTT theo hình thức tập trung, trực tuyến hoặc kết hợp tập trung và trực tuyến về ATTT cho các cơ quan, tổ chức nhà nước; Chuẩn hóa kỹ năng ATTT cho các cơ quan, tổ chức; Đào tạo đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên về ATTT ở nước ngoài; Đào tạo kiến thức, kỹ năng ATTT cho các tổ chức, cá nhân…
Trong 3 kỳ đánh giá gần đây của Liên minh Viễn thông thế giới (ITU), xếp hạng an toàn, an ninh mạng toàn cầu - GCI của Việt Nam liên tục tăng, từ thứ 100 vào năm 2016 lên thứ 50 vào năm 2018 và hiện xếp ở vị trí thứ 25 thế giới, thứ 7 trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, thứ 4 khu vực ASEAN.