Larry Page và Sergey Brin
ữngônglớncôngnghệnhậnlươngcảnămkhôngđủmuamộtbátphởltd ducNhững ông lớn công nghệ nhận lương cả năm không đủ mua một bát phở
相关文章
- 、
-
Soi kèo góc Fulham vs MU, 2h00 ngày 27/1 -
- Bộ GD-ĐT vừa công bố đề thi thử nghiệm môn Toán kỳ thi THPT quốc gia năm 2017 để các học sinh tham khảo. Mời thí sinh và quý độc giả xem chi tiết tại đây.
Xem các môn khác TẠI ĐÂY
Thanh Hùng
"> Đề thi thử nghiệm môn Toán kỳ thi THPT quốc gia năm 2017 -
Ứng dụng công nghệ số quản lý xe ô tô kinh doanh vận tảiNhân viên lái xe taxi Công ty TNHH Mai Linh Thanh Hóa ứng dụng app Lái xe Mai Linh đón, trả khách. Để quản lý hiệu quả hoạt động vận tải taxi, Công ty TNHH Mai Linh Thanh Hóa đã hợp tác với Công ty CP Công nghệ số toàn cầu (Hà Nội) lắp đặt thiết bị định vị GPS cho xe từ 7 chỗ trở xuống. Đến tháng 8-2023, công ty đã triển khai lắp đặt được hơn 750 xe taxi đang hoạt động trên địa bàn tỉnh.
Ông Từ Minh Thanh, Trưởng Phòng Kinh doanh, Công ty TNHH Mai Linh Thanh Hóa, cho biết: Việc lắp thiết bị định vị GPS tạo thuận lợi cho doanh nghiệp theo dõi qua mạng Internet về vị trí phương tiện và các thông số hoạt động của xe trong thời gian thực, lưu trữ lại các thông tin trong cơ sở dữ liệu trong việc giám sát và quản lý phương tiện.
Thiết bị này sẽ cung cấp những thông tin chính xác nhất về vị trí xe, cung đường, mức tiêu thụ nhiên liệu... nhằm giúp cho công tác quản lý được tự động hóa, trở nên đơn giản và thuận tiện hơn. Ngoài ra, công ty ứng dụng app Lái xe taxi Mai Linh cho tất cả nhân viên lái xe.
Đây là ứng dụng dành cho tài xế của hãng taxi Mai Linh, thay thế cho bộ đàm, điều xe tự động, đảm bảo công bằng, loại bỏ hoàn toàn đua điểm và hỗ trợ các lái xe quản lý công việc ngay trên điện thoại. Khi có yêu cầu đón khách, hệ thống sẽ tìm kiếm tài xế phù hợp nhất dựa vào khoảng cách, điểm đánh giá, doanh thu ngày... để gửi yêu cầu đón khách đến tài xế.
Có thể thấy việc ứng dụng công nghệ số trong quản lý xe ô tô taxi đã giúp công ty tăng cường khai thác, sử dụng dữ liệu từ thiết bị phục vụ công tác quản lý, giám sát hoạt động của các phương tiện để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý các trường hợp lái xe vi phạm, như: vi phạm tốc độ, thời gian lái xe, chạy sai lộ trình, không truyền dữ liệu... qua đó góp phần đảm bảo an toàn giao thông và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Theo thống kê của Sở Giao thông - Vận tải (GT-VT) trên địa bàn tỉnh hiện có gần 3.600 đơn vị kinh doanh vận tải bằng xe ô tô (gồm doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh) với hơn 14.400 phương tiện. Thực hiện Luật Giao thông đường bộ, Nghị định số 10/2020/NĐ-CP ngày 17-1-2020 của Chính phủ quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô. Trong thời gian qua, Sở GT-VT đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, chỉ đạo các đơn vị kinh doanh vận tải thực hiện lắp đặt, truyền dẫn dữ liệu từ thiết bị về máy chủ của Cục Đường bộ Việt Nam.
Các đơn vị vận tải tích cực khai thác, sử dụng dữ liệu từ thiết bị giám sát hành trình để phục vụ công tác quản lý, giám sát hoạt động của các phương tiện kinh doanh vận tải thuộc đơn vị quản lý. Đến tháng 8-2023, trên địa bàn tỉnh có 13.302 phương tiện xe ô tô kinh doanh vận tải lắp thiết bị giám sát hành trình.
Từ đầu năm đến nay, Sở GT-VT đã cấp 2.789 phù hiệu cho các xe ô tô kinh doanh vận tải; cấp 186 giấy phép kinh doanh vận tải bằng xe ô tô; 393 giấy phép liên vận Việt - Lào; chấp thuận khai thác 36 tuyến vận tải hành khách cố định. Ngoài ra, ban quản lý các bến xe trên địa bàn tỉnh cũng đã trang bị phần mềm quản lý hoạt động của bến và truyền dữ liệu về Tổng cục Đường bộ Việt Nam để theo dõi hoạt động của các bến xe.
Trong năm 2022 và 7 tháng năm 2023, thông qua hệ thống thiết bị giám sát hành trình, Thanh tra Sở GT-VT đã xử lý vi phạm hành chính đối với 107 trường hợp vi phạm các lỗi, như: đậu đỗ, đón trả khách không đúng nơi quy định, không có danh sách hợp đồng, không thông báo nội dung hợp đồng trước khi vận chuyển về Sở GT-VT...
Ông Vũ Minh Thuận, Trưởng Phòng Quản lý vận tải, Sở GT-VT, cho biết: Ngành giao thông luôn ủng hộ việc ứng dụng khoa học công nghệ nhằm hỗ trợ hoạt động kinh doanh vận tải (hàng hóa, hành khách), trong đó khuyến khích các doanh nghiệp vận tải chủ động ứng dụng để nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải và tạo sự thuận lợi cho người dân.
Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân chấp hành các điều kiện kinh doanh vận tải, đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch. Việc lắp đặt thiết bị giám sát hành trình trên xe ô tô kinh doanh vận tải tích hợp, truyền dữ liệu vào hệ thống máy chủ của các cơ quan quản lý, làm cơ sở để Sở GT-VT tổng hợp, xử lý các lỗi vi phạm, như: vi phạm tốc độ, thời gian lái xe, chạy sai hành trình chạy xe đã được cơ quan quản lý tuyến chấp thuận, không truyền dữ liệu, vi phạm thời gian lái xe liên tục... yêu cầu các đơn vị chấn chỉnh, nhắc nhở, xử lý theo quy định.
Thông qua dữ liệu từ thiết bị giám sát hành trình, Sở GT-VT đã ban hành 5 quyết định thu hồi 768 phù hiệu, biển hiệu của các phương tiện vi phạm có từ 5 lần vi phạm tốc độ/1.000 km xe chạy (không tính các trường hợp vi phạm tốc độ từ 5 km/h trở xuống).
Đây cũng là công cụ hữu hiệu để phục vụ cho các lực lượng có liên quan kiểm tra, truy xuất dữ liệu của phương tiện trong quá trình kiểm tra, xử lý vi phạm, trong quá trình kiểm soát tải trọng; phục vụ công tác điều tra, giải quyết các vụ tai nạn giao thông đường bộ; xử lý phương tiện vi phạm về an toàn giao thông; công tác chống buôn lậu của ngành hải quan.
TheoLê Hợi (Báo Thanh Hoá)
"> -
Kiểm soát vé điện tử với du khách vào Đại Nội Huế Chưa đáp ứng yêu cầu phát triển
Qua khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) tại Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, các kết quả cho thấy mức độ sẵn sàng về cơ sở hạ tầng CNTT phục vụ chuyển đổi sốtại trung tâm vẫn còn hạn chế so với tiềm năng khai thác, phát triển các dịch vụ trên nền tảng số.
Các loại dữ liệu quý về văn hóa, di sản và tài sản hữu hình của trung tâm cần được số hóa, để hình thành nên hệ thống dữ liệu số và kho tri thức số, khai thác hiệu quả, tránh nguy cơ mai một, thất thoát và đồng bộ trong vận hành.
Hệ thống hạ tầng kỹ thuật kết nối internet của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô bằng đường cáp quang. Đến nay, trung tâm vẫn còn nhiều đơn vị trực thuộc chưa có kết nối internet hoặc kết nối chất lượng thấp, công nghệ cũ. Điều này gây bất tiện trong việc phục vụ du khách cũng như điều hành công tác nghiệp vụ, quản lý, giám sát…
Hạ tầng mạng không được đầu tư nâng cấp một cách đồng bộ nên việc triển khai một số phần mềm dùng chung, phát triển các hệ thống thông tin trong quản lý điều hành và xử lý công việc gặp rất nhiều khó khăn, chưa tạo ra một mạng lưới hoạt động ổn định, nhanh chóng và chuyên nghiệp.
Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế hiện quản lý nhiều loại dữ liệu về các lĩnh vực, như: Dữ liệu về các điểm di tích thuộc Quần thể di tích Cố đô Huế; dữ liệu về cổ vật thuộc Bảo tàng Cổ vật Cung đình và các điểm di tích trực thuộc; hồ sơ di sản, hồ sơ trùng tu, tôn tạo và phục dựng; thư tịch cổ, lưu trữ toàn văn và chuyển đổi sang dữ liệu chữ viết phục vụ nghiên cứu và phát triển văn hóa di sản; dữ liệu phi vật thể về âm nhạc cung đình Huế, ẩm thực cung đình Huế và lễ hội cung đình triều Nguyễn…
Tuy nhiên, các tài liệu đang tồn tại dưới dạng giấy, một số tài liệu đã được số hóa nhưng không đầy đủ. Trung tâm có sử dụng hệ thống thư viện điện tử để quản lý lưu trữ và quản lý dữ liệu nghiên cứu, hồ sơ khoa học, khảo cổ nhưng phần lớn các dữ liệu khác chưa được số hóa để quản lý lưu trữ dữ liệu tập trung, gây nguy cơ thất thoát dữ liệu rất lớn theo thời gian và qua nhiều người quản lý, sử dụng.
Ông Lê Công Sơn, Phó Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế cho biết, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế là đơn vị khai thác các dịch vụ du lịch nên chất lượng hạ tầng mạng đóng vai trò rất lớn trong việc xây dựng và quảng bá hình ảnh, phát triển, mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ, nâng cao hiệu quả hoạt động.
Vì vậy, việc thực hiện chuyển đổi số ở trung tâm là nhiệm vụ cần thiết và cấp bách. Với khối tài sản quý giá từ những hiện vật, di sản văn hóa, việc chuyển đổi số, xây dựng thương hiệu trên môi trường số là con đường hữu hiệu để phát huy giá trị di sản, đưa văn hóa di sản đến công chúng bằng nhiều hình thức.
Du khách trải nghiệm công nghệ thực tế ảo tại Đại Nội Huế Ứng dụng công nghệ số trên nhiều lĩnh vực
Nhằm tăng cường ứng dụng CNTT, đặc biệt là công nghệ số trong khai thác, phát huy hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của di sản, văn hóa, lịch sử, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế triển khai đề án “Chuyển đổi số tại Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế giai đoạn 2022-2025”.
Đề án nhằm xây dựng dịch vụ chính quyền số và hệ thống cơ chế, chính sách; ứng dụng CNTT trong các hoạt động nghiệp vụ; triển khai các loại hình ứng dụng CNTT để khai thác cơ sở dữ liệu (CSDL) văn hóa, di sản. Từ đó, tạo ra các giá trị và sản phẩm du lịch mới phục vụ phát triển du lịch và phát huy tiềm năng, lợi thế về văn hóa Huế, tri thức bản địa...
Ông Lê Công Sơn cho biết, đề án hướng đến các giải pháp nâng cao kỹ năng ứng dụng CNTT và kỹ năng số, nâng cao nhận thức về chuyển đổi số trong các lĩnh vực hoạt động của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế. Đồng thời, phát triển hạ tầng nền tảng và hạ tầng thiết bị chuyên dụng, xây dựng khung kiến trúc chuyển đổi số tại trung tâm.
Trên cơ sở những kiến trúc nghiệp vụ tổng thể của lớp văn hóa và giải trí thông minh trong hệ thống cấu trúc ICT tỉnh Thừa Thiên Huế, mô hình thể chuyển đổi số tại Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế với các ứng dụng sẽ xây dựng dựa trên 4 lớp ứng dụng chính: Bảo tồn văn hóa vật thể, phi vật thể; du lịch thông minh, thư viện thông minh, cổng thông tin điện tử.
Đề án rà soát, nâng cấp hạ tầng thiết bị CNTT gồm hệ thống truyền dẫn, hệ thống lưu trữ, camera, server, máy tính, máy scan, các thiết bị phục vụ cho công tác số hóa; nâng cao năng lực các thiết bị phục vụ ở các điểm bán vé, kiểm soát vé; xây dựng hệ thống lưu trữ dữ liệu tập trung cho CSDL chuyên dùng phục vụ dịch vụ; ứng dụng CNTT, công nghệ số để bảo tồn, phát triển và quảng bá các giá trị vật thể, phi vật thể…
Đề án cũng xây dựng hệ thống dữ liệu và kho tri thức số của trung tâm với các dịch vụ chia sẻ, khai thác dữ liệu, gồm các phân hệ quản lý CSDL các điểm di tích, công trình kiến trúc, hạ tầng, CSDL công tác bảo tồn, trùng tu di tích; xây dựng, cung cấp các dịch vụ du lịch đặc thù, chú trọng các trải nghiệm khách hàng với công nghệ thực tế ảo, thực tế ảo tăng cường tại các điểm di tích; phối hợp các bên liên quan trong việc phát huy các giá trị di sản trên các nền tảng số với các ứng dụng Blockchain, AI và dữ liệu đa phương tiện…
TheoMinh Hiền (Báo Thừa Thiên Huế)
"> Chuyển đổi số ở di tích Huế