- Những chuyện "khác người"về chính sách xây dựng đội ngũ ở các trường đại học Việt Nam so với thông lệ quốc tế, như quy trình tuyển chọn đánh đồng người làm khoa học với công chức, chế độ thu nhập dưới mức trung lưu và việc tạo nguồn thiếu cạnh tranh,v.v.. đã được GS Ngô Bảo Châu và PGS Ngô Quang Hưng phân tích kỹ tại phiên "Đối thoại giáo dục" diễn ra sáng nay, 31/7.
|
GS Ngô Bảo Châu trao đổi với các đại biểu dự hôi thảo
|
Giáo sư: Công việc, không phải phẩm tước
Đề cập đến vấn đề bổ nhiệm giáo sư, GS Ngô Bảo Châu cho hay, ở các nước tiên tiến đều tạo một số điều kiện để vị giáo sư được bổ nhiệm có tiếng nói trong việc phát triểnnghiên cứu chuyên môn của mình.Việc này ở Việt Nam được tổ chức một cách rất khác so với nhiều nước: Việc xét chức danh giáo sư được giao cho hội đồng chức danh giáo sư.
Gần đây, Việt Nam đã có một số chuyển biến trong thủ tục phong và bổ nhiệm giáo sư. Cụ thể,hội đồng chức danh giáo sư nhà nước chỉ xét, công nhận đạt tiêu chuẩn chức danhgiáo sư hoặc phó giáo sư, việc bổ nhiệm thuộc về quyền của trường.
Tuy rằng việc bổ nhiệm ở cấp trường vẫn mang tính hình thức, nhưng đây là mộtchuyển biến tích cực và quan trọng về mặt chính sách. Nếu bản thân các trườngnhận thức đầy đủ vai trò tự chủ khoa học của mình, họ sẽ phải chủ động đi tìmcác nhà khoa học xuất sắc về đầu quân cho mình để cải thiện tính hấp dẫn của vịtrí giáo sư.
Tổ chức lại quy trình phong, bổ nhiệm giáo sư chắc chắn sẽ là một trongnhững biện pháp có khả năng làm chuyển biến mạnh nhất chất lượng nghiên cứugiảng dạy của các trường đại học.
Việc này cần được làm lại theo hướng ưu tiêntính tự chủ khoa học của các trường đại học và xác định rõ hơngiáo sư là một vịtrí công việc chứ không phải là một phẩm tước khoa học.
Chọn người "sống và thở" ở tiền tuyến tri thức
Theo GS Châu, quy trình tuyển chọn cán bộ giảng dạy và nghiên cứu hiện nay đang tuân thủ theoquy định chung của tuyển chọn viên chức, công chức.
Quy trình hiện tại hầu nhưkhông có các yếu tố đặc thù cho môi trường hàn lâm, trong khi tính chất côngviệc của các nhân sự hàn lâm lại rất khác so với công việc thông thường của viênchức nhà nước.
Một đặc thù quan trọng của môi trường đại học hiện đại là lấy khả năng nghiêncứu khoa học làm tiêu chí số 1 và sự tự do học thuật - thể hiện qua quyền quyếtđịnh của Faculty(khoa)- là nền tảng hoạt động.
Tiêu chí hàng đầu cho việc tuyển dụng cho giảng viên và giáo sư đại học phảilà khả năng nghiên cứu khoa học. Chỉ có những người “sống và thở” ở tiền tuyếnvà tri thức nhân loại mới có khả năng hiểu và truyền tải những kiến thức nềntảng và những phát kiến tiên tiến nhất cho lực lượng lao động trí não tương lai.
Hệ quả tất yếu của tiêu chí trên là tiếng nói tối cao trong việc tuyển chọnphải thuộc về những người có khả năng đánh giá trình độ, khả năng và tiềm năngnghiên cứu khoa học của ứng viên.
Như vậy cấu trúc của hội đồng tuyển chọn phảikhác với hiện nay. Nó phải bao gồm những giáo sư giảng dạy tại khoa, có ý kiếnvề khoa học, không thể bao gồm nhân viên của các phòng ban, ví dụ như phòng bantổ chức cán bộ.
Cơ cấu của các hội đồng tuyển chọn cũng thể hiện các cán cân quyền lực ởtrường đại học. Ở một trường ĐH Mỹ, quyền lực nằm trong tay của Faculty, các ban bệ có trách nhiệm thực hiện quyết định của Faculty. Quyền quyết định nhân sựthuộc về Faculty là một biểu hiện rất cơ bản của tự do học thuật. Ở các trườngđại học Việt Nam hiện nay, các ban bệ thường đứng trên Faculty.
Quyền lực của hệ thống quan liêu thể hiện quy trình tuyển chọn rắc rốivà không đồng nhất. Quy trình này đủ rắc rối để cho Faculty không có khả năng thựchiện vai trò quyết định của mình nếu không có sự hỗ trợ của các phòng ban.
Đốivới các ứng viên, tình hình còn khó khăn hơn nữa. Nếu không quen biết, họkhông có khả năng vượt qua những rào cản mang tính chất hành chính.
Nói tóm lại, tuyển chọn cần phải được minh bạch hóa, tuyển ứng viênvới một quy trình mở. Trong tuyển chọn phải ưu tiên hàng đầu tiêu chí khoahọc, và cả quyền quyết định về cho những người có thẩm quyền khoa học.
Ràng buộc lớn nhất: Chế độ thu nhập cứng nhắc
GS Ngô Bảo Châu cho rằng, chế độ thu nhập cứng nhắc hiện tại là một trong nhữngràng buộc lớn nhất cho mọi chính sách nhân sự đại học. Và có lẽ, đây là yếu tố chủđạo làm nên các vị trí hàn lâm thiếu tính hấp dẫn các cá nhân xuất sắc.
Cán bộnghiên cứu giảng dạy đại học là công chức hoặc viên chức nhà nước, chế độ thunhập của họ được điều chỉnh bởi quy định chung về thang lương của công viên chứcnhà nước.
Với thang lương hiện tại, mức lương cơ bản của giảng viên đại họckhông đảm bảo cho họ một mức sống trung lưu trong xã hội (mức sống trung lưu cao cho giảng viên nghiên cứu luôn là điều kiện cầncho một hệ thống giáo dục tốt, để nghiên cứu tốt thì ứng viên tuyệt đối cần thời gian tư duytự do, không bị ràng buộc bởi "cơm, áo, gạo, tiền").
Tạo nguồn: Chỉ ưu tiên tuyển "quy hoạch"
Theo GS Châu, một trong những chính sách phổ biến ở các trường ĐH Việt Nam là“tạo nguồn”. Các sinh viên giỏi được giữ lại trường, trong nhiều trường hợp đượchỗ trợ du học, làm luận văn tiến sĩ ở nước ngoài. Những người này bị ràng buộcbởi một lời hứa sau khi học xong sẽ quay lại làm việc cho trường. Trong một sốtrường hợp, họ bị ràng buộc bởi Chính phủ khi nhận học bổng.
Bỏ qua một số tiêu cực ắt có trong việc lựa chọn những sinh viên được ưu tiênđi nước ngoài, biện pháp tạo nguồn hiện đang là biện pháp mang lại hiệu quả tíchcực nhất trong bối cảnh hiện tại. Nhờ cơ chế tạo nguồn mà nhiều trường ĐH ViệtNam còn duy trì được việc trẻ hóa đội ngũ với những nhà khoa học trẻ, ít nhiềucó trải nghiệm trong môi trường quốc tế.
Tuy nhiên, quy trình tạo nguồn cũng phản ánh những điểm yếu nhấttrong công việc xây dựng đội ngũ giảng dạy và nghiên cứu của các trường đại học.Đó là sự thiếu hấp dẫn của vị trí làm việc, thiếu tính cạnh tranh trong tuyểndụng và thiếu tính linh hoạt trong tổ chức cán bộ.
Tính thiếu hấp dẫn của vị trí làm việc là nguyên nhân khiến người ta cần ràngbuộc bằng cam kết những sinh viên được đi học ở nước ngoài. Các ràng buộc này sẽcó những hệ lụy như phương pháp tạo nguồn mang nặng tính chủ quan; các trườngchỉ ưu tiên tuyển chỉ những người mình đào tạo ra, những đối tượng mình “quyhoạch”…Những người trẻ được đàotạo từ nguồn “khác” trở nên hãn hữu. Thiếu cạnh tranh, tất yếu chấtlượng giảm.
Về mặt học thuật, sự thiếu "máu mới" trong tuyển dụng và đào tạo sẽ dẫn đến trì trệ trong nghiên cứu. Thầy và trò cùng một lò ra sẽ có ítcác giao thoa ý tưởng cần thiết trong nghiên cứu khoa học.
Sự ràng buộc này cũng cực kì thiếu linh hoạt cho cả cá nhân những giảng viênđược đi học và cho quy hoạch cán bộ của trường.
Kết quả của quá trình dài như vậy sẽ bị chi phối bởi nhiều rủi ro và trên thực tế không có gì để đảm bảo chất lượng đầu ra ngoài "niềm tin".
Bên cạnh đó, một kế hoạch dài hơi sẽ hạn chế đáng kể tính linh hoạt trong chính sách khoa học của các trường đại học, trong khi môi trường quốc tế biến động đòi hỏi các trường phải liên tục thích nghi...
Một số đề xuất " width="175" height="115" alt="Đề xuất mạnh mẽ của GS Ngô Bảo Châu về nhân sự" />
Đề xuất mạnh mẽ của GS Ngô Bảo Châu về nhân sự
2025-02-03 23:08
|
Những người dân ở Badagong thấy Chen bước đầu gặt hái được nhiều thành công và họ tìm đến sự giúp đỡ của cô để bán trái cây. Nhiều người trong số những nông dân này thuộc diện “dưới mức hộ nghèo”, thu nhập ròng bình quân đầu người hàng năm là 2.300 nhân dân tệ (NDT), nhưng Chen cho biết giờ đây họ kiếm được tới 3.000 NDT lợi nhuận hàng tháng thông qua các buổi livestream của cô, rất nhiều người dân trong làng đã thoát khỏi đói nghèo.
Chen cho biết hoạt động kinh doanh thương mại điện tử đã cải thiện rõ rệt cuộc sống của mình. Thịt, cá trước đây được xem là món ăn xa xỉ chỉ ăn trong các dịp lễ Tết thì giờ đây gia đình cô đã có thể có trong mỗi bữa ăn hàng ăn. Đến mùa thu hoạch vụ mùa, cô đã có thể thuê nhân công thay vì tự làm như trước đây. “Mẹ tôi từng làm việc rất vất vả, nhưng giờ đây với số tiền tôi kiếm được, bà ấy đã có thể nghỉ ngơi”, Chen chia sẻ.
Những “ngôi làng Taobao”
Làng Badagong không phải là ngôi làng duy nhất được hưởng lợi từ việc bán hàng trên các sàn thương mại điện tử. Những “ngôi làng Taobao” ngày càng xuất hiện nhiều ở Trung Quốc, giúp đời sống của người nông dân ở nơi đây được cải thiện đáng kể.
“Làng Taobao” (Taobao Village) là cụm từ để chỉ những ngôi làng có ít nhất 100 hộ kinh doanh trực tuyến trên một trong những sàn thương mại điện tử lớn nhất Trung Quốc - Taobao, tạo ra doanh thu 100 triệu nhân dân tệ (NDT) trở lên.
Theo dữ liệu từ AliResearch, sau 10 năm, mô hình làng Taobao đã mang lại lợi nhuận cho khoảng một nửa tổng dân số nông thôn ở Trung Quốc. Tính đến tháng 8/2019, có tổng cộng 4.310 ngôi làng Taobao ở 25 tỉnh thành.
Tổng doanh thu do các làng Taobao tạo ra lên tới 700 tỷ NDT trong một năm. Tổng số cửa hàng trực tuyến của nông dân đang hoạt động trên Taobao đã tăng gần 10 lần lên 660.000 vào năm 2018, từ 70.000 vào năm 2014. Vào năm 2019, 63 ngôi làng Taobao nằm ở những khu vực nghèo khó nhất của Trung Quốc đã tạo ra khoảng 2 tỷ đồng NDT doanh số thương mại điện tử.
Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới và AliResearch cho thấy thu nhập trung bình hộ gia đình ở làng Taobao gấp ba lần thu nhập của những hộ gia đình nông thôn bình thường, tương đương với thu nhập hộ gia đình thành thị. Báo cáo cũng cho biết thương mại điện tử ở các vùng nông thôn góp phần giảm bất bình đẳng thu nhập và tạo cơ hội làm việc tốt hơn cho phụ nữ và thanh niên, tạo ra 6,8 triệu công việc trong một năm cho người dân nông thôn.
Tại sao các sàn thương mại điện tử vào cuộc?
Các công ty đã chỉ ra rằng họ ngoài mục đích sẽ giúp xóa đói giảm nghèo ở các vùng nông thôn, còn hướng tới mục tiêu “đưa nông sản quê lên phố” giúp người tiêu dùng có thể mua trực tiếp các sản phẩm tươi sống, chuẩn nông mà không cần thông qua bên trung gian như trước đây.
Nhu cầu đối với các sản phẩm nông nghiệp trên khắp Trung Quốc đã bắt đầu xuất hiện những năm gần đây. Từ năm 2014 đến năm 2017, thương mại điện tử ở nông thôn đã tăng gần 7 lần, từ 180 tỷ NDT lên 1,24 nghìn tỷ NDT.
Theo Bộ Thương mại, trong lễ hội mua sắm Ngày Độc thân của Alibaba được tổ chức vào tháng 11 năm 2019, doanh thu nông sản mang lại đạt 7,4 tỷ NDT, tăng 64% so với năm trước.
Thứ trưởng Bộ Thương mại Wang Bingnan cho biết, thương mại điện tử của Trung Quốc đã phát triển nhanh chóng ở các vùng nông thôn và đã bao phủ tất cả 832 quận nghèo trên toàn quốc, tạo điều kiện cho các khu vực nghèo phát triển các mô hình kinh doanh mới.
Doanh số bán lẻ trực tuyến ở các khu vực nông thôn đã tăng từ 180 tỷ NDT năm 2014 lên 1,7 nghìn tỷ NDT vào năm 2019. Tổng doanh thu bán lẻ trực tuyến các sản phẩm nông nghiệp đạt 397,5 tỷ NDT vào năm 2019, tăng 27% so với cùng kỳ năm trước, giúp hơn ba triệu nông dân tăng thêm thu nhập.
“Mục tiêu của chúng tôi là xây dựng một công cụ kỹ thuật số để phục hồi nông thôn và một cơ sở hạ tầng nông thôn mới được thúc đẩy bởi công nghệ”, Li Shaohua, Phó chủ tịch Alibaba chia sẻ.
Cũng theo ông Li, các chiến lược bao gồm liên kết các khu vực thành thị và nông thôn ở Trung Quốc, giúp người tiêu dùng thành thị tiếp cận với nhiều sản phẩm nông nghiệp hơn, đồng thời giới thiệu các sản phẩm thành thị đến các làng quê nông thôn để giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của họ. Đến năm 2022, Alibaba hy vọng rằng doanh số bán các sản phẩm nông nghiệp trên nền tảng của mình có thể vượt 400 tỷ NDT mỗi năm.
Những “cuộc đua” trong tương lai
Alibaba không phải là nền tảng duy nhất chú ý đến thương mại điện tử nông thôn. Pinduoduo, nền tảng thương mại điện tử lớn thứ ba về bán hàng ở Trung Quốc, cũng đã đưa ra các sáng kiến xóa đói giảm nghèo ở nông thôn như Duo Duo Farms, sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để giúp tổng hợp nhu cầu đối với các sản phẩm nông nghiệp và kết nối trực tiếp nông dân với các thương gia và người tiêu dùng muốn mua hàng của họ. Trong khi đó, nhà bán lẻ thương mại điện tử JD.com cũng đã thúc đẩy nông nghiệp, tung ra các sáng kiến như JD Farm sử dụng công nghệ như kết nối vạn vật (IoT), AI và blockchain để các trang trại có thể áp dụng cách tiếp cận dựa trên dữ liệu nhờ đó cải thiện hiệu quả năng suất.
Chính quyền các địa phương tại Trung Quốc cũng đang “háo hức” tham gia vào cuộc đua này, với việc chung tay cùng những người có tầm ảnh hưởng (KOL) để quảng bá sản phẩm địa phương, điển hình như chính quyền Vũ Hán phát trực tiếp chương trình bán mì khô, tôm càng, lá trà và cam vào tháng 4 năm 2020 sau khi thành phố ngừng hoạt động do dịch Covid-19.
Bán hàng trực tiếp (livestream) sẽ là một công cụ quan trọng cho người nông dân giới thiệu sản phẩm của mình đến tay người tiêu dùng. Theo "Báo cáo phát triển thị trường tiêu dùng Trung Quốc năm 2020" do Viện Nghiên cứu Bộ Thương mại phát hành, trong nửa đầu năm 2020, đã có hơn 10 triệu chương trình phát sóng thương mại điện tử trực tiếp, với hơn 50 tỷ người xem và hơn 20 triệu sản phẩm được bày bán. Xu hướng này đã lan rộng đến cả các vùng nông thôn và có một sự phát triển nhanh chóng. Doanh thu của mạng lưới sản phẩm nông nghiệp quốc gia trong ba quý đầu năm 2020 đạt 288,41 tỷ NDT, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước.
Hương Dung(Tổng hợp)
Startup TMĐT Việt gọi vốn triệu USD, cách mạng hóa việc bán hàng trực tuyến
Đây là nền tảng thương mại điện tử được phát triển với mục đích kết nối các cá nhân tự kinh doanh với các nhãn hàng, từ đó mở rộng mạng lưới phân phối sản phẩm trực tuyến.
" width="175" height="115" alt="Thương mại điện tử “cứu' nông dân Trung Quốc" />