“Cá mập” đổ tiền vào startup đi chợ trực tuyến của “cha đẻ” Foody
2025-02-04 18:51:21 Nguồn:NEWS Tác Giả:Kinh doanh View:372lượt xem
Nền tảng đi chợ trực tuyến Cooky vừa công bố huy động thành công 4,ámậpđổtiềnvàostartupđichợtrựctuyếncủachađẻgiải ngoại anh5 triệu USD từ hai quỹ đầu tư Do Ventures (Việt Nam) và Nextrans (Hàn Quốc).
Cooky là nền tảng đi chợ trực tuyến được sáng lập bởi Đặng Hoàng Minh và Nguyễn Thành Đại. Đây là hai doanh nhân kỳ cựu từng đóng vai trò thành viên sáng lập của Foody trước khi startup này được bán cho tập đoàn SEA Group của Singapore.
Sau thành công với Foody, Đặng Hoàng Minh và Nguyễn Thành Đại đã cùng nhau phát triển Cooky. Đây là nền tảng cung cấp giải pháp cho những người không có nhiều thời gian nhưng lại yêu thích việc nấu nướng.
Theo đó, Cooky cung cấp cho người dùng giải pháp đi chợ online. Startup này được phát triển theo hướng trở thành một công ty FoodTech (công nghệ thực phẩm).
Cooky bán kết hợp nguyên liệu tươi sống với các gói thực phẩm sơ chế sẵn, đi kèm các gia vị theo công thức chuẩn. Nguồn nguyên liệu được startup lấy trực tiếp từ các trang trại tiêu chuẩn để đảm bảo chất lượng đầu vào và giảm giá thành đầu ra cho người dùng.
Các đơn hàng trực tuyến sẽ được Cooky giao trong vòng 1 giờ kể từ khi đặt hoặc vào khung giờ khách hàng lựa chọn. Người dùng sau đó sẽ chỉ mất 30 phút là đã có thể hoàn tất việc nấu nướng cho bữa ăn của mình.
"Khách hàng của chúng tôi không cần tốn nhiều công sức để có được bữa ăn gia đình ngon miệng, chất lượng, và vừa vặn với nhu cầu”, CEO Cooky Đặng Hoàng Minh nói. Sau 1,5 năm ra mắt, ứng dụng di động Cooky hiện đã có hơn 1 triệu lượt tải.
Đại dịch đã thúc đẩy nhu cầu đi chợ online và hành vi tiêu dùng này đang tiếp tục được duy trì tại Việt Nam nhờ nhóm dân số trẻ tin dùng các sản phẩm công nghệ. Theo ước tính của Cooky, với tốc độ phổ cập nhanh chóng của các giải pháp đi chợ online, thị trường tạp hóa điện tử (e-grocery) của Việt Nam dự kiến sẽ đạt 1,5 tỷ USD vào năm 2025.
Do vậy, nguồn vốn mới sẽ được Cooky sử dụng để đẩy mạnh R&D (nghiên cứu và phát triển) nhằm cung cấp thêm nhiều sự lựa chọn về nguyên liệu nấu ăn với mức giá tốt hơn. Bên cạnh đó, startup này cũng có kế hoạch tập trung nâng cao trải nghiệm khách hàng bằng việc bổ sung các dịch vụ cá nhân hóa được thiết kế dựa trên nhu cầu.
Đại sứ Thụy Sĩ tại Iran Markus Leitner gặp Tổng thống Iran Hassan Rouhani năm 2017. (Ảnh: Đại sứ quán Thụy Sĩ ở Iran)
Tạp chí Phố Wall dẫn lời các nhà chức trách Mỹ tiết lộ, thông điệp fax được mã hóa và gửi qua đại sứ quán Thụy Sĩ ở Tehran, một trong những kênh liên lạc trực tiếp và tin cậy giữa Washington và Tehran.
Những ngày sau đó, Nhà Trắng và các lãnh đạo Iran đã trao đổi thêm nhiều tin nhắn nữa, trong đó hai bên dùng ngôn từ mềm mỏng và kiềm chế hơn so với những phát ngôn cứng rắn công khai của các chính trị gia.
Một tuần sau, và sau đòn không kích trả đũa của Iran nhằm vào hai căn cứ quân sự có lính Mỹ đồn trú ở Iraq, Washington và Tehran dường như đã lùi xa thêm khỏi vực thẳm thù địch, và tinh thần này được giữ vững cho đến nay.
"Chúng tôi không liên lạc với phía Iran nhiều như vậy, nhưng khi chúng tôi liên lạc thì Thụy Sĩ đã đóng một vai trò chính trong truyền tải thông tin và tránh hiểu lầm", Tạp chí Phố Wall dẫn lời một quan chức cấp cao Mỹ cho biết.
Phát ngôn viên của phái bộ Iran tại Liên Hợp Quốc từ chối bình luận về thông tin trên, nhưng nhấn mạnh "chúng tôi đánh giá cao [Thụy Sĩ] về bất kỳ nỗ lực nào mà họ đã thực hiện để cung cấp một kênh hiệu quả giúp trao đổi thư từ khi và nếu cần thiết".
Một quan chức Iran tiết lộ, kênh trung gian đã cung cấp một cầu nối khi tất cả các bên đều căng thẳng. "Ở sa mạc, chỉ một giọt nước thôi cũng vô cùng quý giá", người này bình luận.
Bức điện mã hóa đầu tiên của Mỹ đã được gửi đi ngay sau khi Washington xác nhận cái chết của tướng Soleimani - một nhân vật quyền lực đứng đầu lực lượng tinh nhuệ Quds thuộc Vệ binh Cách mạng Hồi giáo Iran (IRGC). Tin được gửi tới một máy fax trong phòng kín thuộc tòa sứ quán Thụy Sĩ - phương pháp kể từ cuộc Cách mạng Hồi giáo năm 1979 để Nhà Trắng trao đổi liên lạc với ban lãnh đạo cấp cao Iran.
Theo các nhà ngoại giao, thiết bị này hoạt động dựa trên một mạng lưới an toàn của chính phủ Thụy Sĩ, kết nối đại sứ quán Tehran tới Bộ Ngoại giao ở Bern và đại sứ quán Thụy Sĩ ở Washington. Chỉ có những quan chức cấp cao nhất mới có thẻ khóa sử dụng máy fax này.
Đại sứ Thụy Sĩ Markus Leitner - một nhà ngoại giao 53 tuổi - tận tay trao tin nhắn của Mỹ cho Ngoại trưởng Iran Javad Zarif vào sớm thứ Sáu (3/1), theo giới chức Mỹ và Thụy Sĩ. Tạp chí Phố Wall cho biết, ông Leitner không đưa ra bình luận nhưng Bộ Ngoại giao Thụy Sĩ xác nhận có sự trao đổi tin nhắn giữa Mỹ và Iran. Một quan chức thạo tin tiết lộ, Ngoại trưởng Iran Zarif đã rất tức giận và cho rằng "Mỹ là nguồn cơn của mọi vấn đề".
Các quan chức tình báo và ngoại giao Mỹ cho biết, đại sứ Thụy Sĩ thường xuyên tới Washington họp kín với Lầu Năm Góc. Ông Leitner đã dành nhiều ngày sau vụ Mỹ giết tướng Soleimani để thiết lập một kênh liên lạc cho hai bên nói thẳng quan điểm của mình. Những gì diễn ra bí mật trái ngược với những phát ngôn thẳng thừng mà Tổng thống Trump và ngoại trưởng Zarif đưa lên Twitter.
"Khi căng thẳng với Iran tăng cao, người Thụy Sĩ đóng một vai trò tin cậy và hữu ích mà cả hai bên đều đánh giá cao", một quan chức chính quyền Trump bình luận. "Hệ thống của họ giống như một tia sáng không bao giờ tắt".
Thanh Hảo
" alt=""/>Căng thẳng Mỹ Iran: Hé lộ kênh bí mật giúp Mỹ và Iran tránh vực chiến tranh
Bà Sansom, mất lúc 83 tuổi năm 1995, có một cuộc đời nhiều sự kiện, đặc biệt là trong Thế chiến II. Bà tình cờ bước vào con đường gián điệp và tỏa sáng trong sự nghiệp. Kỹ năng gián điệp của bà được cấp trên của bà là Peter Churchill đánh giá cao. Họ đã hỗ trợ phong trào kháng chiến Pháp mà vẫn tránh khỏi bị sa lưới của ông trùm phản gián Đức Hugo Bleicher.
Sau chiến tranh, Sansom đã làm chứng tại phiên tòa Nuremberg xét xử tội phạm chiến tranh. Bà đã kết hôn với Churchill, biến câu chuyện bịa thời Thế chiến II thành sự thật.
Sinh ra với cái tên Odette Brailly, Sansom là công dân Pháp và là con gái một anh hùng Chiến tranh Thế giới thứ I. Bà gặp một người Anh tên là Roy Patrick Sansom ở Boulogne (Pháp) và kết hôn với người này năm 1931. Bà chuyển tới Anh sống cùng chồng và có ba con gái.
Mùa xuân năm 1942, khi Bộ Hải quân Anh kêu gọi người dân gửi bưu thiếp và ảnh gia đình chụp ở bờ biển nước Pháp để sử dụng cho mục đích chiến tranh, Sansom đã viết thư và nói rằng bà có ảnh chụp ở Boulogne, nhưng lại gửi nhầm thư tới Văn phòng Chiến tranh thay vì Bộ Hải quân. Lá thư khiến Đội Tác chiến Đặc biệt (SOE) của Đại tá Maurice Buckmaster chú ý tới Sansom.
Để làm vỏ bọc, Sansom được tuyển vào Tổ chức Y tá Cấp cứu chuyên hỗ trợ nhân sự cho SOE. Sansom để ba con lại trường của nhà tu kín và đi đào tạo để làm việc với quân kháng chiến Pháp ở nước Pháp đang bị chiếm đóng.
Lúc đầu, khi Sansom muốn gia nhập lực lượng Đồng minh và làm gián điệp, cấp trên không chắc chắn bà có thể thành công hay không xét thấy bà có một số điểm trừ như quá nóng tính và hấp tấp, không có nhiều trải nghiệm thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, khi thấy Sansom có lòng quyết tâm cao, lòng yêu nước, không biết sợ là gì và ý chí mạnh mẽ cống hiến cho quê nhà Pháp, họ đã quyết định tin tưởng bà và giao cho bà công việc quan trọng ở Pháp.
Do thời tiết xấu, Sansom không thể nhảy dù vào Pháp mà phải đi đường biển, cập bến gần Cassis đêm 2/11/1942 và liên lạc với Đại úy Peter Churchill, chỉ huy Spindle – mạng lưới SOE ở Cannes. Bà có mật danh là Lise. Mục tiêu ban đầu của bà là liên lạc với quân kháng chiến Pháp ở French Riviera sau đó chuyển lên Auxerre ở Burgundy để thiết lập căn nhà an toàn cho các đặc vụ. Khi Sansom mới tới Pháp, mạng lưới Spindle trục trặc nội bộ vì tranh cãi giữa đặc vụ chính Andre Girard và người điều hành vô tuyến Adolphe Rabinovitch.
Bìa cuốn sách về Sansom. Ảnh:Ảnh: Times of Israel
Khi Sansom ở Cannes, Churchill đã xin phép Đại tá Buckmaster để Sansom bỏ sứ mệnh được giao và làm người đưa thư cho mình. Sansom được yêu cầu tìm thực phẩm và nơi ở cho Rabinovitch, người ở Pháp bất hợp pháp nên không có phiếu lương thực. Dần dần, Sansom thân thiết với Churchill và Rabinovitch.
Công việc gián điệp rất căng thẳng với Rabinovitch, Sansom và Churchill. Họ không chỉ đối mặt với các đặc vụ Đức Quốc xã từ Cơ quan Tình báo Quân sự Đức Abwehr mà còn cả các đặc vụ hai mang người Pháp làm việc bí mật cho Đức Quốc xã. Kẻ thù nguy hiểm nhất của họ là Bleicher. Hắn ta là bậc thầy trong công việc phản gián và cảnh sát mật. Bằng cách nào đó, hắn đã lần theo dấu các đặc vụ Đồng minh.
Năm 1943, Bleicher đã biết thông tin về chiến dịch của Churchill ở Pháp. Hắn bắt Sansom và Churchill và đưa họ vào nhà tù Fresnes. Cả hai bị giam dưới sự canh giữ của cận vệ và mật vụ Đức Quốc xã. Bleicher tỏ ra thông cảm một cách đáng ngạc nhiên với những người từng là mục tiêu của hắn.
Bleicher một mặt rất tàn nhẫn và cứ làm việc của mình, mặt khắc hắn lại tiếc vì đã làm việc đó. Hắn bắt họ và biết chuyện gì sẽ xảy ra. Tại nhà tù Fresnes, hắn cảm thấy tội lỗi. Hắn biết họ bị biệt giam, sống khổ sở và hầu như không được ăn gì. Hắn tuồn thức ăn vào bất chấp rủi ro bị bắn. Hắn dường như say mê Sansom.
Trong khi đó, Sansom tự nghĩ ra một câu chuyện để bảo vệ mình và Churchill. Họ sẽ đóng giả là cặp vợ chồng và Churchill sẽ nhận là họ hàng với Thủ tướng Anh dù họ không có mối quan hệ gì. Dù mọi người đều tin câu chuyện đó nhưng Bleicher thì không. Tuy nhiên, hắn chú ý thấy khi Sansom và Churchill bị thẩm vấn, họ đều khai giống nhau. Ý tưởng tuyệt vời đó đã cứu mạng họ, nhưng không thể ngăn Sansom bị tra tấn đau đớn.
Tại Fresnes, Sansom bị thẩm vấn 14 lần và bị tra tấn. Bà nhất quyết không tiết lộ nơi ẩn náu của Rabinovitch và một đặc vụ Anh khác. Bà luôn khăng khăng Churchill không biết gì về hoạt động của mình với hy vọng Churchill sẽ được đối xử nhẹ tay. Nhờ đó, Churchill chỉ bị thẩm vấn hai lần và hai đặc vụ khác được bảo toàn danh tính.
Khi bị giam, Bleicher thường xuất hiện và tìm cách mời Sansom đi Paris với mình để nghe hòa nhạc, ăn tối trong nhà hàng nhằm thuyết phục bà khai. Samsom đã cự tuyệt. Bà bị kết án tử hình với hai tội danh tháng 6/1943. Bà đã nói với Bleicher: “Vậy ông sẽ phải quyết định xem tôi bị tử hình về tội gì vì tôi chỉ chết được một lần thôi”. Quá tức giận, Bleicher đã đưa Sansom tới trại tập trung Ravensbruck.
Tại đây, bà bị nhốt vào phòng giam trừng phạt, bị bỏ đói. Sau khi quân Đồng minh đổ bộ vào miền Nam nước Pháp tháng 8/1944, theo lệnh của Đức Quốc xã, phòng giam Sansom không được có ánh sáng, thức ăn trong một tuần và tăng nhiệt độ trong phòng. Sau đó, bà được phát hiện bất tỉnh trong phòng giam. Dù bác sĩ trại tập trung nói rằng Sansom không thể sống nổi quá vài tuần với tình trạng đó, nhưng tình trạng bà khá dần vào tháng 12/1944 khi được đưa tới phòng giam ngầm.
Khi quân Đồng minh cách Ravensbruck vài km, sĩ quan chỉ huy trại đã mang theo Sansom và lái xe tới một căn cứ Mỹ để đầu hàng. Hắn hi vọng mối liên hệ của Sansom với Thủ tướng Churchill có thể giúp hắn thoát bị hành quyết.
Sansom đã sống sót sau chiến tranh và đoàn tụ với Churchill, nhưng Rabinovitch bị bắt ngay trước ngày D-Day và bị chết trong phòng hơi độc tại trại tập trung Rawicz ở Ba Lan.
Theo baotintuc.vn
" alt=""/>Nữ điệp viên tình nguyện chịu tra tấn thay người yêu