Thể thao

Cách nghĩ và cách làm mới trong xây dựng Chính phủ số

字号+ 作者:NEWS 来源:Công nghệ 2025-02-01 04:04:45 我要评论(0)

Tại Hội nghị trực tuyến Giao ban quản lý nhà nước tháng 7/2020 của Bộ TT&TT diễn ra chiều 4/8,ácbxh premierbxh premier、、

Tại Hội nghị trực tuyến Giao ban quản lý nhà nước tháng 7/2020 của Bộ TT&TT diễn ra chiều 4/8,áchnghĩvàcáchlàmmớitrongxâydựngChínhphủsốbxh premier ông Đỗ Công Anh, Phó Cục trưởng Cục Tin học hóa cho biết, thời gian qua, Cục Tin học hóa đã triển khai một số nhiệm vụ liên quan tới xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ số với cách nghĩ khác và cách triển khai mới.

Cách nghĩ và cách làm mới trong xây dựng Chính phủ số
 

Xây sản phẩm mẫu rồi cho dùng thử

Điển hình là việc triển khai Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu cấp bộ, tỉnh (LGSP). Tính đến tháng 12/2019, cả nước mới có 4 bộ và 21 tỉnh xây dựng và kết nối LGSP với Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NGSP) do Cục Tin học hóa chủ trì xây dựng.

Bản thân LGSP không phải là phần mềm dành cho người dùng sử dụng trực tiếp để cảm nhận được. Nhiệm vụ của nền tảng này là kết nối các phần mềm với nhau. Do đó, với một số bộ, tỉnh mà lượng dữ liệu chưa nhiều thì chưa rõ hiệu quả của LGSP.

“Chúng tôi cho rằng, nếu có cái mới, mọi người chưa thực sự hiểu nó là gì, hoặc nó giúp ích được gì cho mình, thì cần có 1 sản phẩm mẫu để các nơi sử dụng thử. Sau khi dùng thử, trải nghiệm thử, họ sẽ hiểu hiệu quả và sẽ tìm cách triển khai”, ông Đỗ Công Anh bày tỏ.Với cách nghĩ khác đó, Cục Tin học hóa đã nâng cấp NGSP để cung cấp cho tất cả các đơn vị, bộ, tỉnh có nhu cầu. Thời gian triển khai kỹ thuật cho mỗi đơn vị trung bình là 1 ngày. Sau đó kết nối, đào tạo, chuyển giao mất khoảng 3-5 ngày.

Từ khi nâng cấp NGSP để phục vụ việc “dùng thử”, đến tháng 7/2020, toàn quốc đã có 55/63 tỉnh có LGSP, 8 tỉnh còn lại đều đang có kế hoạch triển khai, có đơn vị đang phê duyệt dự án, có đơn vị đang triển khai đấu thầu, dự kiến sẽ hoàn thành trong năm 2020; 19/22 bộ, cơ quan ngang bộ đã có LGSP, 3 đơn vị còn lại đang trong quá trình đấu thầu, triển khai dự án.

Chủ động phục vụ người dân và doanh nghiệp

Một minh chứng nữa cho thấy hiệu quả vượt trội của cách nghĩ khác, cách làm mới, đó là trong việc triển khai dịch vụ công trực tuyến (DVCTT). Tính đến tháng 12/2019, Bộ TT&TT mới có 27% DVCTT mức 3, 17% DVCTT mức 4; toàn quốc có 26,68% DVCTT mức 3, 10,76% DVCTT mức 4.

Theo cách làm trước kia, mỗi bộ, tỉnh nâng mức độ DVCTT theo cách làm lần lượt, có thể đăng ký năm nay 10 DVCTT, sang năm 15 DVCTT. Thực tế cho thấy cách làm này không thực sự hiệu quả, tiến độ triển khai DVCTT nhìn chung còn chậm, số lượng hồ sơ DVCTT của người dân, doanh nghiệp rất thấp.

Cục Tin học hóa xác định cần phải chuyển từ tư duy cung cấp những gì đang có sang tư duy chủ động phục vụ người dân và doanh nghiệp, đồng thời đặt câu hỏi tại sao cơ quan nhà nước không chủ động cung cấp tất cả các dịch vụ công trên cổng dịch vụ công, hệ thống thông tin một cửa?

Nghĩ khác - làm mới, Cục Tin học hóa đã phối hợp với Trung tâm Thông tin, Văn phòng Bộ TT&TT để triển khai áp dụng mô hình trước tiên tại Bộ TT&TT, nâng cấp cổng dịch vụ công, hệ thống thông tin một cửa theo mô hình nền tảng, như vậy tất cả các dịch vụ công đều được triển khai đồng bộ, thống nhất.

Sau đó, Cục Tin học hóa triển khai cổng hỗ trợ thanh toán trực tuyến PayGov, kết nối với cổng dịch vụ công, cho phép người dân thanh toán trực tuyến. Điều này đồng nghĩa tất cả DVCTT mức 3 đã được đưa lên mức 4.

Đến tháng 7/2020, Bộ TT&TT và Bộ Y tế là 2 Bộ đầu tiên công bố đạt 100% DVCTT mức 4; toàn quốc có 30,69% DVCTT mức 3, 15,91% DVCTT mức 4. Vừa qua, Cục Tin học hóa đã phối hợp với Sở TT&TT Bến Tre, Sở TT&TT Tây Ninh và một số địa phương khác để phấn đấu đưa được tối đa DVCTT của các địa phương đó lên mức 4.

“Cục cũng đã có công văn gửi các sở TT&TT và đơn vị chuyên trách CNTT của các bộ, đề nghị kết nối với hệ thống PayGov để nhanh chóng đưa được các DVCTT mức 3 lên mức 4; xây dựng văn bản hướng dẫn triển khai DVCTT theo mô hình mới, phấn đấu đạt tối đa DVCTT mức 4”, Phó Cục trưởng Cục Tin học hóa chia sẻ thêm.

{ keywords}
Phó Cục trưởng Cục Tin học hóa Đỗ Công Anh trình bày cách làm mới trong xây dựng Chính phủ số tại Hội nghị trực tuyến Giao ban quản lý nhà nước tháng 7/2020 của Bộ TT&TT. Ảnh: Trọng Đạt.

Quản lý bằng số liệu

Gần đây, công tác theo dõi, đôn đốc giám sát quá trình triển khai chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số cũng đã và đang được áp dụng những cách nghĩ khác, cách làm mới.

Từ trước đến nay, việc đánh giá thực tế triển khai vẫn thường được tiến hành qua mẫu báo cáo, phiếu khảo sát.

Tuy nhiên, theo chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ TT&TT là “muốn quản lý tốt thì phải đo đạc được, phải có số liệu”, trong năm 2020, Cục Tin học hóa đã đẩy mạnh triển khai hệ thống giám sát Chính phủ điện tử (EMC).

Hệ thống này có khả năng thu thập, đo đạc mức độ sử dụng cổng DVCTT, hệ thống thông tin một cửa, đánh giá được mức độ truy cập của người dân vào DVCTT, đánh giá được mức độ nộp, xử lý và trả kết quả DVCTT, kể cả thời gian từ lúc nộp đến lúc trả kết quả của mỗi hồ sơ.

“Đến nay, 50 tỉnh, 7 bộ đã và đang liên hệ với Cục Tin học hóa để triển khai kết nối, dữ liệu liên tục được gửi về hệ thống EMC, bao gồm dữ liệu người dân truy nhập vào DVCTT thế nào, đến từ đâu (mạng xã hội hay Google Search hay vào thẳng cổng DVCTT), họ xem trang nào, nộp hồ sơ nhiều nhất vào dịch vụ công nào...”, Phó Cục trưởng Đỗ Công Anh nói.

Sẵn sàng đồng hành với địa phương và doanh nghiệp

Với cách nghĩ “không chỉ làm vai trò ra văn bản hướng dẫn, đôn đốc, tổng hợp báo cáo mà còn đồng hành cùng các Sở TT&TT, các đơn vị chuyên trách về CNTT, qua đó chủ động tháo gỡ vướng mắc trong triển khai”, Cục Tin học hóa đã đẩy mạnh các hoạt động song phương giữa Cục với từng sở, từng đơn vị chuyên trách CNTT; tổ chức các buổi làm việc trực tuyến nhanh, hiệu quả trong khoảng 15-30 phút.

Chủ động tạo lập các nhóm làm việc trực tiếp giữa cán bộ của Cục với các cán bộ của sở, đơn vị chuyên trách CNTT, thời gian qua, Cục đã tổ chức được các buổi đào tạo cả trực tiếp và trực tuyến với 100 chuyên gia về CNTT của các sở, đơn vị chuyên trách, qua đó thiết lập được mạng lưới mà gần như tất cả các vấn đề vướng mắc cần tháo gỡ sẽ được gửi trên các nhóm đến Cục Tin học hóa để xử lý kịp thời.

Về hoạt động đồng hành cùng các doanh nghiệp công nghệ số, với cách nghĩ “không chỉ là cơ quan quản lý nhà nước mà còn có vai trò dẫn dắt các doanh nghiệp số tham gia vào chuyển đổi số quốc gia”, Cục Tin học hóa theo sự chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ TT&TT đã tổ chức đều đặn Ngày thứ Sáu công nghệ với các sự kiện ra mắt nền tảng công nghệ.

“Đến giờ, Ngày Thứ Sáu công nghệ đã bước đầu có tiếng vang, có tác dụng. Rất nhiều doanh nghiệp công nghệ, thậm chí các startup, công ty ở Singapore đã liên hệ với Cục để giới thiệu các sản phẩm, nền tảng của mình, và đề nghị được tham gia ứng dụng công nghệ vào công cuộc phòng chống Covid”, Phó Cục trưởng Đỗ Công Anh cho hay.

Mặt khác, Cục Tin học hóa đã thu hút các doanh nghiệp cùng tham gia xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật, chủ động góp ý cho các văn bản, chính sách, chủ động hỗ trợ các bộ, tỉnh triển khai xây dựng chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số.

Các địa phương thường chi 0,3% ngân sách nhà nước hàng năm cho CNTT. Với cách nghĩ “không coi đây là khoản chi, mà cần coi đây là khoản đầu tư và sẽ mang lại giá trị lớn hơn nhiều trong tương lai”, Bộ TT&TT liên tục làm việc với các địa phương, qua đó khuyến nghị các tỉnh dành ít nhất 1% chi ngân sách cho CNTT.

Bình Minh

Đi từng ngõ, gõ từng nhà, vận động người dân tải ứng dụng Bluezone

Đi từng ngõ, gõ từng nhà, vận động người dân tải ứng dụng Bluezone

50 triệu người dân cài đặt ứng dụng Bluezone, đó là mục tiêu mà Bộ TT&TT đề ra nhằm giúp Việt Nam nắm trong tay một công cụ hiệu quả để chống lại sự lây lan của Covid-19.

1.本站遵循行业规范,任何转载的稿件都会明确标注作者和来源;2.本站的原创文章,请转载时务必注明文章作者和来源,不尊重原创的行为我们将追究责任;3.作者投稿可能会经我们编辑修改或补充。

相关文章
网友点评
精彩导读
- Hệ thống giáo dục của Đức tạo ra sự phân luồng học sinh dựa theo khả năng cánhân. Học sinh vào cấp một (Grundschule) khi lên 6 tuổi. Học xong lớp 4 học sinhđược chia theo năng lực và sở thích để vào học trong các loại hình truờng khácnhau. Bài viết dưới đây nhằm giới thiệu và phân tích một số mô hình giáo dục ởbậc học sau THCS.

Phân luồng theo khả năng học sinh từ tiểu học

Hệ thống giáo dục của  Đức tạo ra sự phân luồng học sinh dựa theo khả năng cánhân. Học sinh vào cấp một (Grundschule)khi lên 6 tuổi. Học xong lớp 4học sinh được chia theo năng lực và sở thích để vào học trong các loại hìnhtruờng khác nhau.

Giáo viên của trường tiểu học thường khuyên học sinh của mình vào học trongmột loại hình trường nào đó dựa theo những tiêu chí về thành tích học tập, tiềmnăng, và đặc điểm nhân cách như khả năng làm việc độc lập, tự tin. Tuy nhiên,cha mẹ học sinh vẫn là người ra quyết định cuối cùng về việc cho con của họ họctrong trường nào. Một số phụ huynh có thể không theo những khuyến cáo của giáoviên vì họ tin rằng học ở bậc học cao hơn con của họ có nhiều cơ hội thăng tiếnhơn.

{keywords}
Hình ảnh mình họa

Trong hầu hết các tiểu bang, học sinh vào học trong các trường THCS với nhữngloại hình sau:

+ Hauptschule (từ lớp 5 tới lớp 9)dẫn tới chứng chỉ tốt  nghiệpHauptschule và sau đó vào học bán thời gian (part-time) trong các trường nghềkết hợp với việc rèn nghề tới khi 18 tuổi. Những nghề được dạy là Kinh tế giađình; May; Thủ công; Cơ khí; Sử dụng máy tính; Vẽ kĩ thuật. Những chương trìnhnày được thiết kế giúp học sinh phát hiện ra những điểm mạnh của họ và chuẩn bịcho con đường nghề nghiệp sau này.

+ Realschule (từ lớp 5 tới lớp 10)dẫn tới chứng chỉ tốt nghiệpRealschule và sau đó theo học kiểu part-time trong các trường nghề, trường caođẳng nghề (higher vocational school) hoặc tiếp tục học trong một trườngGymnasium.

+ Gymnasium (từ lớp 5 tới lớp 13) dẫn tới  Abitur (kì thi tốt nghiệpvà chứng nhận tốt nghiệp, bao gồm 4 học kì và 4 bài thi tốt nghiệp cuối khoá) vàchuẩn bị cho học sinh vào học ĐH.

Học sinh học trong những trường Hauptschule thường là những học sinh có thànhtích học tập thấp và học những môn học rất cơ bản của trường Realschule vàtrường Gymnasium với  tốc độ chậm. Những môn học phụ trong trường Hauptschulemang tính định hướng nghề.

Vào khoảng một phần tư học sinh có độ tuổi 14 học trong các trường này theosố liệu thống kê trong nhiều năm học.

Lớp 8 học sinh có thể đi theo ba hướng tới lớp 10

Học sinh trong những trường Realschule học các môn văn hoá và thực hành nhưngnhấn mạnh đến  giáo dục văn hoá. Khoảng 24 - 26% học sinh ở độ tuổi 14 vào họctrong những trường này. Sau khi hoàn tất việc học tập ở hai loại hình trường họctrên, học sinh có thể vào học các môn văn hoá trong trường Berufsschule theokiểu part-time và phối hợp với việc rèn nghề. Tốt nghiệp  chương trình rèn nghềhọc sinh được cấp một chứng chỉ nghề nào đó. Ở lớp 8 học sinh có thể đi theo bahướng tới lớp 10. Những hướng này là: các khoa học tự nhiên, kinh doanh, và nhânvăn.

Mỗi hướng có thể có các nhánh khác nhau. Ví dụ, nhánh toán học tập trung chủyếu vào toán và vẽ kĩ thuật. Nhánh thương mại tập trung vào thương mại và kếtoán. Nhánh nhân văn tập trung vào các môn giáo dục nghệ thuật và khoa học xãhội. Mặc dầu tất cả các học sinh thuộc loại hình trường này đều phải học toán vàkhoa học tới lớp 10 nhưng vẫn có thể  bị phân chia theo khả năng. Những học sinhmuốn theo các hướng khoa học tự nhiên và kinh doanh cần học nhiều về toán nângcao hơn học sinh theo  hướng giáo dục nhân văn.

Học sinh học trong những trường thuộc Gymnasium với các môn văn hoá và thườngdẫn tới học ở các ĐH. Học sinh học tại các trường này có thể đi theo ba hướng:ngôn ngữ cổ điển, ngôn ngữ hiện đại và khoa học tự nhiên- toán. Một biến thểkhác của loại hình trường Gymnasium truyền thống này là Berufliches gymnasium ởđó dạy những môn học mang tính chuyên môn như  kinh tế học, khoa học công nghệ cộng thêm với những môn học văn hoá cốt lõi.

Ở lớp 11 và lớp 12 những môn học bắt buộc gồm: Ngôn ngữ, văn học, nghệthuật (nhóm I); Khoa học xã hội (nhóm II); Toán, khoa học và công nghệ (nhómIII); Tôn giáo (nhóm IV); Giáo dục thể chất (V). Trong những lĩnh vực này,CTĐT được chia ra làm hai mức: mức căn bản và mức nâng cao. Điều này cho phép sựđịnh hướng chuyên ngành sớm mà không mất đi những lợi ích của giáo dục phổ thông(general education). 

Sự khác nhau giữa các chương trình căn bản và nâng cao

Số tiết học trong một tuần (3 tiết đối với chương trình căn bản, 5 đến 6 tiếtđối với chương trình nâng cao); Mức độ phức tạp của nội dung môn học; Mức yêucầu học sinh lĩnh hội được nội dung môn học và khả năng học sinh làm việc độclập.

Đặc điểm nổi bật của hệ thống giáo dục Đức là hệ thống đào tạo kép. Hệ thốngđào tạo này có từ rất lâu ở Đức. Tuy nhiên, một phần  của hệ thống đào tạo képdựa trên trường học bắt đầu xuất hiện vào thế kỉ 16 và 17. Những trường này dầndần chuyển thành những trường giáo dục thường xuyên phổ thông và thương mại sauđó được cấu trúc lại tương ứng với các nghề cho đến tận đầu thế kỉ 20. 

Những trường nghề là một trụ cột  của hệ thống đào tạo kép ở Đức. Sở dĩ đượcgọi là hệ thống kép là bởi vì giáo dục nghề nghiệp (vocational education) đượctiến hành đồng thời bởi nhà trường và đào tạo nghề (occupational training) bởingười sử dụng lao động.

Hiện tại, để có thể tham gia trong các khoá đào tạo kép, người học phải tốtnghiệp ở một trong hai loại hình đào tạo ở bậc trung học cơ sở Hauptschule vàRealschule hoặc tốt nghiệp ở Gymnasium. Mọi người muốn chuẩn bị cho mình mộtnghề được ghi trong Luật đào tạo nghề nghiệp cần tham gia hệ thống giáo dục kép.Mỗi năm, khoảng 600.000 thanh niên tham gia chương trình đào tạo trong hệ thốngkép trong số đó có 2/3 là những người hoàn thành giáo dục bắt buộc (tốt nghiệpTHCS). Những học sinh tham gia chương trình này thường học theo kiểu part-time 1đến 2 ngày một tuần tại các trường nghề và được đào tạo thực hành  trong thờigian còn lại của một tuần. Thời gian đào tạo các chương trình nghề biến độngtrong khoảng giữa 2 đến 3 năm và phải thi tốt nghiệp trước khi ra trường.

Điều đáng quan tâm là một loại hình trường Berufsschule tương tự như trunghọc nghề của ta trước kia nhưng có điểm khác là việc rèn nghề được tiến hành cảở ngoài các doanh nghiệp nữa. Loại trường này có nhiệm vụ cung cấp cả các chươngtrình giáo dục nghề nghiệp và giáo dục văn hoá phổ thông gắn với đòi hỏi củanhững nghề chuyên môn và thị trường việc làm. Những chương trình đào tạo ởtrường này nói chung đều chia ra hai trình độ: cơ bản và chuyên môn.

Học sinh học trong các trường này có thể có cả những người đã có chứng nhậntốt nghiệp Abitur vì vậy giáo viên thường gặp những khó khăn trong việc dạy họcsinh có trình độ, khả năng và động cơ học tập khác nhau.

Nội dung và tiêu chuẩn của chương trình đào tạo do uỷ ban chương trình đàotạo (CTĐT) quyết định thông qua việc bỏ phiếu kín. Hướng dẫn CTĐT được hiệuchỉnh hàng năm. Giáo viên dựa theo hướng dẫn để xây dựng bài giảng. Giáo viên cóthể không sử dụng những sách giáo khoa mà họ cho rằng quá cũ và thường sử dụngnhững ví dụ cụ thể và tài liệu có những thông tin mới nhất. Giáo viên không đượcphép thay đổi CTĐT - vì CTĐT gắn chặt với những kì thi tốt nghiệp mà 70% trongsố các bài thi thiết kế theo kiểu thi trắc nghiệm đa phương án trả lời.

Những đặc điểm chính của giáo dục của Đức

Việc đào tạo nghề tại các công ty dựa trên hợp đồng theo luật dân sự được kíkết bởi công ty và người học. Hợp đồng được kí kết sẽ bao hàm tất cả các mặt củađào tạo nghề như mục đích, thời gian đào tạo, tiền lương, nghĩa vụ và tráchnhiệm của thầy và trò.

Tóm lại, hệ thống giáo dục của Đức cho thấy những đặc diểm chính sau:

+ Sự phân luồng dựa theo thành tích học tập và khả năng của học sinh diễn ratừ rất sớm. Vai trò của giáo viên và của gia đình rất quan trọng trong việc địnhhướng cho học sinh đi theo những mạch đường học tập và phát triển sự nghiệp khácnhau. Ngoài ra, việc vào học ở một trong ba loại hình trường  như đã nêu trêncòn phụ thuộc cả vào điều kiện kinh tế và trình độ văn hoá của cha mẹ học sinh.Học sinh trong các trường Hauptschule được dạy kiến thức phổ thông và đào tạotheo hướng thực hành sau đó tiếp tục học trong những trường nghề sau khi họcxong lớp 9. Trong khi đó, ở trường Realschule học sinh được học các môn văn hoáphổ thông nâng cao nhưng không mất đi khả năng để hoàn tất chương trình và vàohọc trong trường nghề sau lớp 10. Gymnasium giáo dục học sinh nặng về lý thuyếtvà phát triển theo hướng hàn lâm hướng tới học ĐH.

+ Chương trình đào tạo ở mỗi bậc học lại chia ra làm một số nhánh nhỏ kiểuchuyên ban từ rất sớm để làm phù hợp tối đa năng lực của người học. Những mônvăn hoá liên kết chặt chẽ với  định hướng chuyên môn sau này.

+ Sự liên thông trong các loại hình trường học được thực hiện linh hoạt giúpcho người học chọn đúng trường phù hợp với năng lực bản thân.

+ Hiện tại những trường nghề và trường Berufsschule găp phải khó khăn tuyểnsinh do ngày càng có nhiều học sinh muốn vào học trong các ĐH. Đặc biệt đối với khu vực đông Đức, vào học trong các trường Gymnasium là một nguyện vọng lớn nhấtcủa học sinh.

Nhìn chung, giáo dục trung học phổ thông trên thế giới tồn tại những mô hình sau đây để phân luồng học sinh sau THCS:
+ THPT  định hướng theo hướng hàn lâm – chuẩn bị cho học sinh tốt nghiệp THPT để vào các viện ĐH 4 năm hoặc vào các ĐH.
+ THPT  cả theo hướng hàn lâm và hướng nghề.
+ THPT theo hướng nghề.
Ngoài ra, đối với những học sinh bỏ học giữa chừng ở THCS, hay THPT hoặc những người lao động thiếu kỹ năng, các quốc gia đều có chương trình đào tạo kỹ năng (các khóa ngắn hạn) cho người lao động thông qua sự két hợp giữa nhà trường và doanh nghiệp.
  • Hoàng Ngọc Vinh

XEM THÊM:

>> Cảnh báo tránh "vết xe đổ" phân luồng giáo dục" alt="Giáo dục phổ thông ở Đức: Phân luồng từ khi 6 tuổi" width="90" height="59"/>

Giáo dục phổ thông ở Đức: Phân luồng từ khi 6 tuổi