Ứng dụng Xylitol trong hỗ trợ ngừa các bệnh răng miệng
Công nghệ8551人已围观
简介Tại Hội nghị khoa học và Triển lãm Răng Hàm Mặt Quốc tế (VIDEC) 2023,ỨngdụngXyl...
Tại Hội nghị khoa học và Triển lãm Răng Hàm Mặt Quốc tế (VIDEC) 2023,ỨngdụngXylitoltronghỗtrợngừacácbệnhrăngmiệng c1 châu âu nam GS. Akira Hamura đến từ Trường Đại học Nha khoa Nippon Nhật Bản đã trình bày bài báo cáo về tác dụng của chất này.
Xylitol - chất tạo ngọt bảo vệ răng miệng
Lấy dẫn chứng từ các nghiên cứu về đường của Turku (Phần Lan) năm 1970-1978, GS. Hamura - chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực nghiên cứu về Xylitol đã chỉ ra hiệu quả của chất này. Theo Giáo sư, việc sử dụng thường xuyên Xylitol - một dẫn xuất rượu đường với vị ngọt tự nhiên có nhiều trong các quả họ dâu, cây bạch dương, cây sồi xanh và một số loại rau củ - có khả năng làm giảm Streptococcus Mutans (MS - vi khuẩn gây sâu răng) trong khoang miệng, từ đó tạo điều kiện cho các vi khuẩn ít hại hơn hoặc vi khuẩn có lợi phát triển. Ngoài ra, Xylitol cũng được chứng minh có khả năng giảm thiểu lượng mảng bám trên răng.
Giáo sư cũng tiếp tục đưa ra nhiều cơ sở khoa học chứng minh hiệu quả của Xylitol trong việc ngăn ngừa sâu răng ở cả người lớn và trẻ nhỏ, điển hình là các nghiên cứu của Scheinin & Mäkinen 1976; Isokangas 1987; Söderling và cộng sự, 2000, Isokangas và cộng sự, 2000. Xylitol cũng có thể được bổ sung vào các chế độ ăn kiêng. Xylitol cũng đã phát huy tác dụng ngừa sâu răng khi được ứng dụng vào thực tiễn sử dụng tại nhiều nước trên thế giới như Phần Lan, Thuỵ Điển, Estonia, Belise, Mỹ, Canada, Nhật Bản, Italia… Theo GS. Hamura, Xylitol có thể góp phần tăng cường khả năng tái khoáng của nước bọt. Đây là một quá trình quan trọng với sức khỏe răng miệng và được coi là một cơ chế tự sửa chữa của cơ thể để chữa lành các tổn thương sâu răng.
GS Akira Hamura - Đại học Nha khoa The Nippon (Tokyo, Nhật Bản) chia sẻ về hiệu quả ngăn ngừa sâu răng và nha chu của Xylitol
Sự phổ biến rộng rãi của Xylitol trên toàn thế giới
Với tác dụng bảo vệ sức khỏe răng miệng, hiện nay Xylitol được ứng dụng rộng rãi tại nhiều nước phát triển như châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và nhiều nước châu Á khác như một biện pháp phòng chống sâu răng. Nhiều sản phẩm Xylitol được bán ở những quốc gia này và rất dễ dàng sử dụng hàng ngày.
Tại Việt Nam, những tác dụng của Xylitol cũng đang được quảng bá rộng rãi. Có thể kể đến hoạt động nghiên cứu của Hội Răng Hàm Mặt Việt Nam (VOSA) đã chứng minh hiệu quả của sản phẩm kẹo cao su có chứa Xylitol trong việc giảm sâu răng khi sử dụng hàng ngày.
Không dừng lại ở các nghiên cứu, hàng năm, Hội Răng Hàm Mặt Việt Nam còn mời các chuyên gia đầu ngành về Xylitol đến hội thảo và chương trình đào tạo chuyên môn hàng năm tại nhiều tỉnh thành như Thái Nguyên, Hải Phòng, Huế, TP.HCM... Tại các chương trình trước đó do Hội Răng Hàm Mặt Việt Nam tổ chức, các chuyên gia đã liên tục cập nhật kiến thức và những nghiên cứu mới về Xylitol cho cộng đồng khoa học. Năm nay, tại VIDEC 2023, bài báo cáo “Kiểm soát sâu răng với Xylitol dựa trên bằng chứng” của GS. Hamura về công dụng của Xylitol trong việc ngừa sâu răng và các bệnh răng miệng tiếp tục được giới khoa học đón nhận. Với những ứng dụng thiết thực trong việc bảo vệ răng miệng, không chỉ các chuyên gia về Xylitol mà ngày càng nhiều nha sĩ và sinh viên nha khoa cũng tham gia nghiên cứu và tìm hiểu về cơ chế tác dụng của chất này.
GS. Akira Hamura thuyết trình về chủ đề “Kiểm soát sâu răng với Xylitol dựa trên bằng chứng” tại VIDEC 2023
Các chuyên gia răng hàm mặt cho biết kẹo cao su có chứa Xylitol được khuyến khích sử dụng như một trong những phương thức tự chăm sóc sức khỏe răng miệng hàng ngày. Hiện nay, kẹo cao su Lotte Xylitol - một sản phẩm của công ty Lotte Việt Nam cũng là sản phẩm được Hội Răng Hàm Mặt Việt Nam khuyên dùng có tác dụng ngăn ngừa sâu răng. Hiệu quả ngăn ngừa sâu răng của Lotte Xylitol cũng đã được chứng minh trong nghiên cứu khoa học của VOSA năm 2019.
Bà Nguyễn Thị Kim Phụng tại một buổi họp báo. Ảnh: Lê Văn
Tỷ lệ thanh niên được tiếp tục học tập sau trung học của Việt Nam thấp hơn khu vực và thế giới
Trên thực tế vẫn còn một số lượng khá lớn cử nhân, thậm chí thạc sĩ thất nghiệp hoặc phải làm trái ngành nghề hay phải giấu bằng cấp để làm những công việc đơn giản. Theo bà, đâu là nguyên nhân của tình trạng này?
Bà Nguyễn Thị Kim Phụng:Tình trạng lao động có trình độ thất nghiệp có nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến những khó khăn của nền kinh tế nói chung dẫn đến khó khăn trong sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, khó khăn trong thu hút đầu tư.
Ngoài ra, công tác dự báo nhu cầu và quy hoạch nguồn nhân lực chưa hiệu quả cũng là nguyên nhân dẫn tới cơ cấu nhân lực được đào tạo chưa hợp lý so với yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Về phía ngành Giáo dục, chúng tôi cũng nhận ra một số nguyên nhân chủ quan như sau:
Thực hiện mục tiêu“đạt tỷ lệ 450 sinh viên/1 vạn dân vào năm 2020”để ngang bằng với tỷ lệ sinh viên của các nước trong khu vực dẫn đến số lượng các trường và quy mô đào tạo tăng nhanh nhưng các điều kiện đảm bảo chất lượng chưa được quan tâm tương xứng, chưa đáp ứng nhu cầu thị trường lao động.
Các biện pháp quản lý giáo dục hiện đại như triển khai hệ thống kiểm định các cơ sở giáo dục đại học; ban hành khung trình độ quốc gia tương thích với khung trình độ tham chiếu của khu vực để làm cơ sở xây dựng chuẩn đầu ra phù hợp để sinh viên tốt nghiệp có tính cạnh tranh trên thị trường lao động chỉ mới được triển khai trong thời gian gần đây nên chưa phát huy ngay được hiệu quả.
Sinh viên chưa được rèn luyện kỹ năng tham gia thị trường lao động hiện đại, đặc biệt là kỹ năng khởi nghiệp, tự tạo viêc làm cho mình và cho người khác; kỹ năng thích ứng với mọi biến động trong môi trường làm việc cũng như sự linh hoạt để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của từng doanh nghiệp, ngành sản xuất, cả ở trong nước và trên thế giới; trình độ ngoại ngữ thấp giảm cơ hội việc làm trong thời kỳ hội nhập.
Cả nước hiện có 271 trường đại học với khoảng 1,7 triệu sinh viên. So với tổng số dân 95 triệu người, con số này phải chăng là quá lớn và chính việc chạy theo số lượng tuyển sinh mà coi nhẹ chất lượng đào tạo ở một số trường là nguyên nhân chính dẫn tới số lượng cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp?
Theo số liệu của UNESCO năm 2014, tỷ lệ thanh niên được tiếp tục cơ hội học tập sau trung học của Việt Nam mới chỉ đạt 30,5%; còn thấp hơn mức trung bình của các nước trong khu vực ĐNA (31,2%) và thấp hơn nhiều so với các nước phát triển (Châu Âu là 70,5%). Như vậy, chưa thể nói là VN đã có nhiều trường ĐH, nhiều SV quá mức cần thiết.
Cần nhìn một cách tổng thể để có cách giải quyết toàn diện hơn vì con số thất nghiệp được công bố không chỉ bao gồm số sinh viên mới tốt nghiệp, mà là tổng số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động.
Các nguyên nhân từ nền kinh tế cũng chi phối rất lớn. Do đó, kích cầu lao động cần phải tiến hành đồng bộ với các biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo, chấn chỉnh và từng bước loại bỏ các cơ sở đào tạo kém chất lượng mà ngành Giáo dục đang tích cực thực hiện.
Mọi khâu cần có sự tham gia của đơn vị sử dụng lao động
Gần đây, khi giải thích cho việc có tỉ lệ nhất định sinh viên tốt nghiệp chưa có việc làm người ta thường đưa ra một lý do rất “truyền thống” là đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Theo bà, tại sao sinh viên tốt nghiệp và nhà tuyển dụng chưa gặp được nhau?
Có hai nguyên nhân chính.
Thứ nhất, các cơ sở đào tạo chưa kết nối với doanh nghiệp như một yêu cầu tất yếu để phát triển chương trình, tổ chức đào tạo, đánh giá sinh viên đạt chuẩn đầu ra trước khi họ tham gia vào thị trường lao động.
Thứ hai, về phía doanh nghiệp cũng chưa xem việc hợp tác với các cơ sở đào tạo là cách hữu hiệu để tuyển dụng lao động đáp ứng yêu cầu sử dụng và cũng là thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Để doanh nghiệp và sinh viên đến gần nhau hơn, Nhà nước cần có chính sách kiến tạo, kết nối, hỗ trợ các bên hợp tác với nhau như: quy định trong chính sách thuế, ưu đãi đầu tư, xếp hạng doanh nghiệp… đối với các doanh nghiệp tham gia vào công tác đào tạo nhân lực để khuyến khích những doanh nghiệp này.
Về vấn đề này, Bộ GD-ĐT cũng đã quy định các trường ĐH phải hợp tác với bên sử dụng lao động để phát triển chương trình đào tạo trong Thông tư 07/2015; đưa nội dung hợp tác danh nghiệp thành tiêu chí để công nhận trường đạt chuẩn quốc gia trong Thông tư 24/2015; Chính phủ cũng đưa tiêu chí này để xếp hạng các trường ĐH trong Nghị định 73/2015.
Sát nhập, giải thể các trường đại học kém hiệu quả
Theo bà, sinh viên cần phải chủ động như thế nào để tự tạo ra cơ hội việc làm tốt cho bản thân?
Quá trình học trong trường chỉ là trang bị tư duy nghề nghiệp và nguyên lý, kiến thức nền tảng cho tất cả các sinh viên. Chỉ có người nào tận dụng được cơ hội học tập, thường xuyên nỗ lực tự học suốt đời và liên tục biết tự cập nhật kiến thức kỹ năng mới thì mới thành công.
Các trường cũng cần quan tâm thay đổi nội dung, chương trình phương pháp giảng dạy để giúp sinh viên có thể học tập - làm việc ngay khi còn trong trường đại học.
Mô hình học tập dựa trên dự án là một mô hình đang được áp dụng ở một số quốc gia phát triển. Các trường có thể tham khảo để giúp sinh viên rèn luyện kỹ năng mềm song song với chương trình học chính khóa.
Về lâu dài, phải làm thế nào để kiểm soát tốt và nâng cao chất lượng đào tạo bậc đại học, biện pháp nào sẽ được triển khai để số cử nhân thất nghiệp giảm xuống?
Đối với ngành Giáo dục, nhiều biện pháp cũng đang được triển khai để giảm tỷ lệ thất nghiệp đối với các lao động đã qua đào tạo.
Ở cấp ngành, Bộ GD-ĐT đã và đang triển khai các nhiệm vụ lớn đối với giáo dục đại học như quy hoạch mạng lưới, trong đó, định hướng giảm đầu mối, sáp nhập, giải thể các cơ sở đào tạo kém hiệu quả, tập trung đầu tư phát triển các cơ sở giáo dục đại học hoạt động có chất lượng và hiệu quả; xây dựng kế hoạch tổng thể phát triển giáo dục đại học, chỉnh sửa luật giáo dục đại học; khảo sát và công bố tỷ lệ sinh viên có việc làm, hỗ trợ khởi nghiệp cho sinh viên; thực hiện tự chủ đại học để tạo sự cạnh tranh trong việc phát huy nội lực và sự sáng tạo của tất cả các trường… để nâng cao chất lượng đào tạo.
Về phía các cơ sở giáo dục đại học, các trường đang tập trung thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo như phát triển đội ngũ giảng viên, tăng cường cơ sở vật chất, tăng cường kết nối doanh nghiệp, phát triển chương trình đào tạo, kiểm soát chất lượng đầu vào, chất lượng quá trình đào tạo và chất lượng đầu ra… trong đó, đặc biệt nhấn mạnh công tác kiểm định chất lượng giáo dục theo các tiêu chuẩn kiểm định tiệm cận với tiêu chuẩn khu vực ASEAN và khảo sát, công bố và nâng cao tỷ lệ có việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp.
Theo quy chế tuyển sinh, kể từ năm 2018, các trường phải công bố tỷ lệ sinh viên chính quy có việc làm sau 12 tháng kể từ khi tốt nghiệp của 2 khóa gần nhất so với năm tuyển sinh (theo nhóm ngành). Những trường khảo sát không trung thực hoặc không công khai tỷ lệ việc làm của sinh viên tốt nghiệp theo quy định sẽ không được thông báo tuyển sinh.
Xin cảm ơn bà!
Minh Thu (Thực hiện)
" alt="Việc làm cho sinh viên tốt nghiệp cần giải pháp tổng thể">
Việc làm cho sinh viên tốt nghiệp cần giải pháp tổng thể